Ngôi nhà gắn bó với mỗi
người nhiều nhất, ở đó có thật nhiều điều để nhắc và để nhớ.
Lúc
tôi vừa nhận biết được thế giới xung quanh (Khoảng năm 1967 đến 1970 gì đó, tôi
khoảng 3 đến 6 tuổi) cho đến những năm 1980 Thầy Bu tôi mới làm lại nhà. Tôi
thấy, ngôi nhà tôi quay hướng đông nam, chỉ có 3 gian, một chái phía tây, tường
cắm nhứng, trát vách đất, không có ngưỡng, lợp rạ. Thế có nghĩa là không có cột
cái, chỉ có cột quân đơn, nhứng cắm xuống nền đất, trát vách đất lên đến mái
rạ. Cửa che mành tre, nửa cật, nửa ruột. Thầy tôi thường đan một tấm liếp bằng
nứa để khi nào có mưa to, gió lớn thì lại khiêng vào che cửa. Những lần đan
liếp như thế lại gọi chú Ngạch và cậu Lê đến cùng làm. Nhà nền bằng đất, nện
chặt bằng vồ. Hồi nhỏ tôi đã biết, cứ mỗi lần có mưa đầu mùa, thế nào cũng bị
dột, phần vì mái bị mục, cũng có thể do chuột làm tổ mà không biết. Cũng có thể
là có chỗ mới dặm lại, rạ chưa ẹp xuống, còn có chỗ để nước lọt vào. Mỗi khi
nhà dột, bà tôi và bu tôi thường đem thau đồng, nồi đồng, mâm gỗ và cả bát tô
ra hứng vào những chỗ dột. Chỗ nào không có cái hứng thì đất mủn ra và trũng
xuống. Mưa ban ngày thì đỡ khổ, mưa ban đêm cứ phải lật chiếu và chạy chỗ ngủ
liên tục đến khi ngớt mưa.
Tôi
nhớ, cái nhà bé thế nhưng có năm cũng chỉ có rạ để đánh nóc, có năm lợp một
mái, năm sau lại lợp mái bên kia. Những năm ấy còn thừa một ít rạ lại cho nhà
ai đó vay. Hai năm lợp mái, một năm đánh nóc thì đến vài năm tiếp theo phải lợp
cả hai mái. Rạ lợp nhà phải là rạ vụ mùa, tức là vụ gặt tháng mười. Lúc đó có
mấy loại lúa thế này: Chân trâu lùn, quảng, tám xoan, mộc tuyền cao, nếp cái,
nếp vải, nếp râu, sau này còn có nông nghiệp tám, nông nghiệp 22, mộc tuyền cổ
bằng, X10 ... nhưng rạ lợp nhà thì phải chọn rạ nếp, lúa quảng hoặc ít ra cũng
phải lúa mộc tuyền cao thì rạ mới đủ dài. Rạ lợp nhà phải được phơi khô- còn
gọi là được nắng - mới thơm và sau này không có mạt.
Ngày
ấy, rơm rạ đều của chung Hợp tác xã. Tôi nhớ lúc đó cả Thôn Gia xuyên được gọi
là Hợp tác xã Văn Xuyên. Ruộng chia theo đội, đội chia thành nhóm. Gặt cũng gặt
theo nhóm, sau đó rơm rạ đều chia theo nhóm cả. Rơm thì chia ở sân kho, sau khi
đã trục, tuốt lúa. Còn rạ thì chia theo từng ruộng ở ngoài đồng. Rạ chia bằng
cách, lấy đòn gánh, đòn xóc hoặc đòn càn đo diện tích thửa ruộng, sau đó chia
theo đầu lao động của từng gia đình. Đòn gánh thì làm bằng cây tre chẻ đôi, có mấu; đòn xóc
cũng làm bằng cây tre chẻ đôi nhưng đẽo nhọn hai đầu. Còn đòn càn là bằng cả
cây tre và phạt nhọn hai đầu. Khi gánh rạ, chỉ có những người to lớn, vạm vỡ có
sức khỏe gánh hàng tạ mới phải dùng đến đòn càn. Chia xong, mọi người rẽ thẳng
ranh giới của nhà mình rồi đánh dấu phần được chia, chờ rạ khô ra gánh về. Tuy
nhiên thì lúc gánh cũng nhiều khi gánh nhầm sang phần của nhà người khác do
không nhớ dấu hoặc do bố mẹ đánh dấu, con đi gánh... Tuy nhiên việc đó cũng
không quan trọng lắm, vì rạ cũng không được coi là vật quí lắm.
Rạ nhà tôi gánh về thường
được đánh đống ngay đầu sân bên bên trái gần cổng, còn rơm thì đánh đống ở đầu
sân bên phải. Sau này thầy tôi làm một cái nhà ngang cho bà nội ở bên phải thì
rơm rạ đều đánh sang bên trái cả.
Những lần sắp lợp nhà, cả
nhà thường tranh thủ làm rạ buổi tối, thường chọn những đêm có trăng, còn ban
ngày phải đi làm đồng. Những hôm ấy, ngoài thầy bu tôi, hàng xóm biết là đến
làm giúp, thường thì hay có chú Ngạch, bác Hiền, chị Chiến, cậu Lê, dì Nết, chị
Nụ ... Nếu đông quá cũng không đủ chỗ để làm, vì thế có năm có người này, có
năm lại người khác đến giúp. Rạ ở trong đống đang được xếp gồi nào ra gồi đấy
được đem vào sân giũ rối ra thành đống lớn. Trẻ con chúng tôi thường chờ người
lớn giũ thành đống to thì bắt đầu leo lên đỉnh nhảy nghịch. nếu nhảy ít thì lúc
rút rạ sẽ thành nếp đẹp, nếu nhảy nhiều rạ sẽ bị dí xuống, rút rất nặng và
chóng mệt. Nếu nhảy nhiều thế nào chúng tôi cũng bị đuổi "Mấy đứa này, đi
xuống, dí hết rồi". Lúc đó chẳng ai mắng chúng tôi là nghịch thì rặm và
ngứa cả. Trẻ con hồi đó chẳng có khái niệm phải giữ vệ sinh như ngày nay, da
xước đỏ tía lên, rặm ngứa vẫn ngủ tốt.
Sau khi giũ rối đống rạ,
nếu cẩn thận thì lấy thau nước vã nhẹ lên mặt đống và xung quanh cho bớt bụi.
Người rút rạ, rút từ chân đống, chỗ vừa giũ xong ấy cho đến chỗ giũ lúc ban
đầu; nếu rút bên kia đống sẽ gọi là rút ngược, nặng không rút được. Rút đến đâu
đặt xuống đất đến đấy, đẩy ra ngoài thành một hàng rạ dài, suôn và đẹp. Lúc
rút, tay thuận rút, tay kia vuốt, thân rạ cứng được rút theo ra, còn rờm (tức
là áo của rạ đã mủn) thì rụng ra và vương dưới đất và được vuốt ra ngoài. Thứ
đó sau này bỏ vào chuồng lợn để làm phân. Người không rút thì lấy dây chuối
hoặc thừng đay xếp từng gồi xếp bắt chéo nhau, bó lại. Bó nhỏ thôi, vừa để sau
này lấy sào đưa lên mái....
Lúc lợp nhà, thầy tôi thường
mời cậu ruột tôi là Cậu Lê (Những năm ấy cậu còn trẻ chưa lấy vợ) đến làm giúp,
vì Cậu lợp nhà đẹp có tiếng trong làng. Cậu Lê bị liệt một chân từ lúc còn nhỏ
nên bà ngoại đặt tên là Lê, tuy nhiên cậu rất khoẻ. Khi đi chăn trâu, cậu có
thể từ dưới đất nhảy phóc một cái lên mình con trâu to lớn y như người ta làm
xiếc. Lúc lợp nhà, một mình cậu có thể bắc thang nhảy thoăn thoắt lên mái nhà
như một con chim chuyền cành vậy.
Lợp nhà nghe thì đơn giản
nhưng cũng lắm công phu. Ngày lợp nhà cũng phải chọn ngày tạnh ráo, vào tháng
mười một âm lịch trước vụ cấy. Khi dỡ mái nhà phải làm từ sớm cho đỡ bụi, vì
lúc đó không khí còn ẩm. Những thứ ở trong nhà đều phải lấy chiếu đậy lại cho
đỡ bị bụi bẩn rơi xuống, cho nên chúng tôi cũng được khua dậy từ sớm. Thầy tôi
và cậu Lê dỡ rạ cũ ra, đùn xuống sân thành từng đống, thỉnh thoảng trong mái rạ
vẫn có một số ổ chuột mới nở, con còn đỏ hỏn, thầy tôi lại nhặt để ra một chỗ
chốc nữa gọi những con gà trống, gà mái đến cho chúng một bữa no nê. Rạ cũ thường
được bà và bu tôi đánh gọn vào đống để đun bếp. Sau khi dỡ mái rạ, các rui mè
được lấy chổi cau quét sạch bụi và mạng nhện, cả bên trong và bên ngoài. Khi
đã sạch, thầy tôi và cậu Lê lấy lạt buộc lại những nút lạt cũ đã đứt, thay
những đoạn rui, mè đã mục, mọt. Nút ở rui mè thì buộc lạt ngắn, nút ở đòn tay
vào rui thì buộc bằng mây hoặc lạt cật dài (Khâu này, cho đến những năm tôi học
cấp hai thì thầy tôi thường gọi tôi lên buộc cùng, một phần để hướng dẫn cho
tôi sau này biết mà làm). Vừa làm thầy tôi vừa dặn: Cẩn thận không ngã gãy chân
đấy. Rồi ông lại kể ra những trường hợp ở đây, ở đó có trường hợp ngã gãy chân.
Lúc buộc lại rui mè thì mặt trời đã lên. Tôi nhớ khoảng tầm ấy thì ông Đào ở
xóm ngoài thường đảo vào xóm tôi chơi, thể nào ông cũng hỏi:
-Năm nay nhà Đoái lợp “tân
khoa” cơ à? (Đoái là tên thầy tôi, lợp tân khoa là lợp cả hai mái).
Thầy tôi thế nào cũng
chào thay cho câu trả lời:
-Vâng, ông vào trong này
đấy ạ, bụi quá chả dám mời ông uống nước.
Ông bảo:
-Cứ làm đi thôi, rạ nhà
mày năm nay có được không? (ý hỏi là có đủ dài, đủ khô và đủ số lượng không)
-Rạ cũng được ông ạ,
thiếu một ít phải vay bên bác Hiền mới đủ.
Quê tôi đồng chiêm, ruộng
nhiều, cấy nhiều nhưng chưa chắc đã có đủ rạ lợp nhà. Nhiều năm nước lũ, gặp
gió to lúa bị ngả rạp xuống, gặt xong đánh mô phơi không được nắng, rạ lẫn bùn
mục ra hỏng hết, đun bếp còn “khói lòi mắt”. Có năm sâu rầy ăn, vừa không có
thóc, vừa không có rạ. Nếu thiếu rạ lợp nhà, thường thì chỉ lợp một mái, năm
nay mái này, năm tới mái khác, mái còn lại chỉ dọi những chỗ dột.
Lúc nói chuyện với ông
Đào thế thôi nhưng rồi thầy tôi lại bảo cậu Lê giải lao và mời ông Đào (Còn
đứng đâu đó bên bể nước bác Hiền hoặc bên bác Chiến) sang uống nước chè tươi
bà nội tôi vừa nấu. Ông Đào vào chơi cũng không bao giờ ngồi, ông chỉ nhìn
quanh một tí rồi lại đi ra. Vả lại ông ăn trầu nên cũng không uống nước.
Giải lao thường ngồi ở
cái chiếu được trải trên cái chõng tre hoặc trên hè, lúc đó hè cũng bằng đất
nện, mãi đến những năm 1980 gì đó mới tráng một lớp vôi với bồ hóng. Ngoài bát
nước chè xanh có thể có thêm rổ khoai lang luộc. Thuốc lào thì cậu Lê không
hút, cậu thường hút thuốc lá, mãi sau này lấy mợ tôi rồi cậu mới hút thuốc lào.
Thời gian đó, công việc chính của cậu là làm may cho hợp tác xã mua bán ở chợ
Măng, cùng với ông Chữ. Có thuốc lá hút là thuộc vào hạng “sành điệu” lúc bấy
giờ, tuy nhiên cậu cũng chỉ dám hút mỗi lần nửa điếu thôi (tức là một điếu bẻ
đôi).
Sau khi giải lao, việc
lợp nhà lại tiếp tục. Đầu tiên là nẹp mái dân. Đây là chỗ thấp nhất của mái
nhà, mái gianh là chỗ tạo ra giá đỡ cho phần rạ ở trên và sau khi mái nhà lợp
xong người ta cắt bằng, như vậy nó còn là chỗ trang trí cho mái nhà. Do vậy,
khi nẹp mái dân phải dùng loại rạ cứng, đẹp và xóng, không giũ rối; lúc làm
phải thật đều nếu không mái sẽ bị lép, nước mưa sẽ xẻ rãnh, mái gianh sẽ xấu.
Nẹp xong mái dân bắt đầu lợp mái. Rạ được người ở dưới đưa lên bằng sào cho
người ở trên mái bắt, sau đó vứt rải ở trên mái như ném mạ trên ruộng cấy vậy.
Nếu thuận tay phải thì lợp từ phải sang trái, thuận tay trái thì lợp từ trái
sang phải, thường thì một mái nhà chỉ có một người lợp từ đầu chí cuối. Như
thế mới đều được. Lợp chéo theo hình bậc thang, gồi rạ sau được chèn trong gồi
rạ trước rất cẩn thận và gối nhau, làm như vậy, dù các gồi rạ trông rất phẳng
phiu nhưng thực chất nó được ghép theo hình vẩy cá, rất kín. Người lợp buộc
một nắm lạt ngắn ở thắt lưng để buộc rạ. Không phải gồi rạ nào cũng buộc vào mè
mà cứ một đoạn 3, 4 gồi mới buộc một lần. Thường thì Thầy tôi bảo với cậu Lê
lợp mái trước cho đẹp, còn ông nhận lợp mái sau.
Khi lợp lên đến đòn nóc
thì phải đánh nóc. Phần đánh nóc rất khó nên phần này người phụ trách chính là cậu
Lê còn thầy tôi phụ giúp. Đánh nóc phải đạt yêu cầu: độ cao vừa phải, độ chắc
chắn, đều. Nếu cao quá thì mái sẽ dô như lưng con trâu gầy, nếu lép quá thì
mái to, trông lại bèn bẹt, dễ dột. Nếu không chắc chắn lại hay bị đốc khi có
giông bão. Còn nếu không đều thì nóc bị xẻ rãnh khi mưa nhiều, nóc sẽ dột. Nói là đều nhưng dần về phía hai đầu nhà phải
cao nhỉnh hơn ở giữa một chút trông mái nhà mới đẹp.
Khâu tiếp theo của việc
lợp nhà là xén mái dân. Khâu này thường chỉ có cậu tôi làm. Cậu lấy cái liềm
xén lúa, ngồi trên cái ghế hái chè để xén. Mái được xén sát cây đòn tay dưới
cùng rất đều, xén đến đâu lại lấy trang cào thóc đẩy những chỗ chưa bằng lắm
lên cho thật phẳng. Cây đòn tay dưới cùng cũng cong lên ở hai đầu nhà, vì thế
mái dân cũng cong về phía hai đầu trông rất đẹp. Lúc đó cũng là lúc thầy tôi
bắc thang ở trong nhà rút những cọng rờm thò xuống ở bên trong nhà làm cho phía
trong mái cũng rất gọn và sạch mắt. Việc cuối cùng là mọi người trong nhà quét
bụi trên vách, giũ giường chiếu và quét tước cho thật sạch. Ngôi nhà vách đất
lợp rạ lúc đó trông rất khang trang và sáng lên rất đẹp.
Nhà
tôi tuy có ba gian trát vách nhưng rất ấm cúng. Những khi trời nóng nực, oi bức
nhiều bà con trong xóm thường đến nhà, trải chiếu, nilon xuống nền đất nằm cho
mát và nói chuyện phiếm hoặc ngủ trưa.
Nhà tôi mái rạ ba gian
Cửa che liếp nứa, cửa giăng
bức mành
Khi
bão gió, lúc nắng hanh
Tay bưng gió bấc, tay dành
hứng mưa
Nhà
tôi nằm giữa làng Dừa
Ngại chi giông gió, nắng mưa
bão bùng.
Bát cơm, manh áo hưởng chung
Buồn vui, đau yếu tấm lòng sẻ
chia.
Mùa
tháng 6 đến tháng 8 âm lịch là thời điểm hay xảy ra bão gió. Tôi còn nhớ, cứ
đêm 30 tết, thầy tôi lại ra đứng nhìn về hướng đông rồi bảo: Năm nay lại nhiều
bão đây.
Tôi hỏi: Sao thầy biết thế?
Ông
bảo: Thầy đếm mống mây phía đông con ạ. Kia kìa, đằng đông năm nay có 10 cái
mống mây, trông như những cái cột đen đen ấy, có thể sẽ có đến 10 cơn bão, có
thể nó về mình, có thể không về hết nhưng sẽ nhiều đấy.
Thầy còn giải thích, nếu đêm 30 tết mà
trời tối đen như mực là mưa thuận, gió hòa, được mùa; nếu trời sáng là khó làm
ăn lắm, thời tiết không thuận lợi, sâu phá lúa. Thế còn xem bão to hay nhỏ thì
nhìn vào bụi tre hóa, nếu măng mọc thẳng ra ngoài thì thôi, chứ măng mọc chui
hết vào giữa bụi thì thế nào năm ấy cũng có bão to.
Ngày trước không có thông tin như ngày
nay, việc xem các hiện tượng thiên nhiên chỉ dựa vào các hiện tượng của chính
thiên nhiên.
Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa, ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống.
Cơn đằng đông vừa trông, vừa chạy
Cơn đằng tây mưa giây, gió gật,
Cơn đằng bắc xúc thóc ra phơi ...
Ví như thấy ráng vàng kết hợp với trời oi khó chịu, ao nước tự nhiên chuyển
màu đen, sủi bọt, cá ngoi là đang sắp có bão lớn. Nếu thấy kiến tha trứng lũ
lượt leo lên cao là có mưa lũ to sắp xảy ra.
Bên hàng xóm có ông Bát rất hay nói
trạng, khi mọi người nói về dự đoán thời tiết, thế nào ông cũng chêm vào một
câu cho vui: Có gì đâu, cứ thấy mèo uống nước giọt nhà là mưa to. Thế là mọi
người lại cười rúc rích, vì mèo uống nước giọt nhà thì tức là đã mưa to rồi,
còn gì phải đoán nữa.
Mỗi lần sắp có cơn bão to, tất cả
người lớn, thanh niên đều tập trung chống bão. Cốt lõi nhất vẫn là giữ cho ngôi
nhà không bị đổ. Mất ngôi nhà kể như là mất cả cơ nghiệp. Việc chống bão đầu
tiên là kiếm lấy một số cột chống bằng tre bương khỏe chống vào các họng cột
trong nhà. Chặt cọc tre đóng bên ngoài sân, sau vườn để ràng bốn góc nhà. Lấy
cây mây và chão dừa thật chắc bện vào, một đầu buộc vào kèo nhà, một đầu ràng
vào cọc thật chắc. Trên mái thì lấy cây chuối, chặt cho gẫy gập lại và đặt lên
nóc chống tốc nóc. Còn mái thì ràng bằng tre hóa dài. Muốn đóng được cọc tre
xuống đất sâu phải có vồ sàm (vồ lớn làm bằng những khúc gỗ chắc). Vồ sàm không
phải nhà ai cũng có, những nhà không có phải đi mượn. Mấy bà góa hoặc có chồng
đi bộ đội xa thì phải nhờ người đến đóng hộ, có người chưa mượn được, chưa có
người giúp tủi thân ngồi khóc bất lực như bà Khoảnh, bà Dân. Mọi người xong việc
nhà mình thế nào cũng sẽ đến giúp. Thầy tôi và mấy người trong xóm thế nào cũng
sang giúp bác Chiến, bác Hiền, Chị Xuyến...
Tôi nhớ, việc chống bão thế nào cũng có sự xuất hiện của Ông Đào. Ông
không phải là cán bộ nhưng ông là người có uy tín trong làng, mọi kế sách do
ông bày đặt. Vồ sàm ở đâu có, đến chỗ nào mượn. Nhà nào cần bổ sung cái gì là
ông bảo ngay. Ông cứ đi đến đâu là ở đó rất yên tâm. Thế rồi đâu cũng vào đấy
cả. Không khí chống bão vì thế cứ ồn ã khắp làng trên xóm dưới. Nào là mượn vồ,
mượn thuổng, chặt tre, chẻ lạt, be bờ ao, chống chuối… Người lớn thì lo sốt vó, ngược lại bọn trẻ con
chúng tôi lại thấy vui và chạy khắp xóm để xem chống bão.
Sau khi bão tan hẳn, vài ngày sau mọi
người lại chuyển cột chống xếp ra sau nhà, dỡ cây chuối trên nóc xuống, còn dây
ràng vẫn để nguyên, trừ những dây vướng lối đi. Nếu nhà nào không bỏ cây chuối
thì rạ ở chỗ đó sẽ bị thối và bị dột khi có mưa.
Tôi nhớ nhất có một cơn bão lớn vào
năm 1968, năm ấy tôi mới được 4 tuổi thôi, nhưng chẳng hiểu sao vẫn nhớ đến tận
bây giờ. Đó là cơn bão số 8. Bão đổ bộ vào lúc ban đêm, mỗi ngày gió một mạnh
hơn. mặc dù nhà đã được chằng chống kỹ nhưng cứ mỗi lần gió giật, ngôi nhà lại
rung lên kêu răng rắc. Ngoài cửa che liếp, từng cơn gió hắt vào kêu ràn rạt.
Mấy ngọn đèn hoa kỳ cứ tạt đi, lắc lư
rồi lại bùng lên rất to. Thầy tôi
bảo, không khéo đổ nhà mất. Từ lúc đó tôi rất sợ. Trong nhà ướt hết, chỗ thì
dột, chỗ thì hắt, nền nhà không có chỗ nào khô. Thầy tôi lột hết chỉ giường chỉ
để bạnh không cho bà nội và anh em chúng tôi ngồi vào trong phòng khi có đổ nhà
thì có cái giường nó đỡ. Thầy tôi và anh Bình (anh cả) cứ xoay vần mấy cái cột
chống vì sợ nó trượt ra khỏi họng cột. Thỉnh thoảng ông lại ngó ra ngoài xem
gió chuyển hướng nào để chống cột tăng cường về hướng ấy. Đến gần sáng thì gió
yên, thầy tôi lách cửa ra ngó lên trời, rồi ngó quanh hàng xóm, thông báo một
số nhà bị tốc mái. Bu tôi hỏi: Liệu đã tan bão chưa mình? Thầy tôi bảo: Điềm
này còn gió nam quật lại nữa, chắc đúng tâm bão rồi. Ông bảo anh Bình chuyển
cột chống sang hướng nam, đóng cọc lại. Sau đó, ông bế em tôi là Trình (lúc đó
mới một tuổi) và dắt tôi sang gửi nhà bác Hiền cho ngồi vào trong cái bể nước
mui vòm đã tháo cạn. ở đấy có bác Chiến, bà Đào, Chị Nụ, Chị Luy (bằng tuổi
tôi), Chị Na (cũng 1 tuổi) và ai đó nữa tôi không nhớ rõ.
Y như lời thầy tôi, chưa đầy năm phút
sau gió nam bắt đầu nổi lên, lần này gió giật mạnh ngay từ đầu. Vì ngồi trong
bể nên không thấy gió mấy, chỉ thấy mọi người thỉnh thoảng lại sửa chỗ che
miệng bể cho nước đỡ vào. Tôi cũng không biết tại sao lúc ấy em Trình và chị Na
lại không khóc.
Đến sáng thì bão tan. Bọn trẻ con
chúng tôi tung tăng chạy khắp xóm để xem cảnh tượng sau trận bão, mặc dù trời
vẫn mưa nhỏ. Vườn chuối đổ la liệt, những cây cam gẫy cành chỉ còn trơ lá xác xơ,
những cây bạch đàn gẫy ngang thân chắn lối đi, những bụi tre gai dốc bồng trơ
rễ màu vàng, cái mảng gốc của nó trơ đầy rễ vàng ươm, cao hơn cả đầu người lớn.
Ao nào cũng đầy nước và nổi lềnh bềnh đầy lá cây. Cá thả vỡ bờ đi hết. Người
lớn thì chắc xót lắm, còn chúng tôi cứ phấn khởi chạy tung tăng. Tôi nghe thấy
bảo nhà chú Ngạch đổ nhà, Ngách – em họ tôi bị cột đè vào đùi suýt gẫy. Chúng
tôi liền chạy ra xem thấy nhà chú Ngạch mái rạ úp sụp trên nền đất, xiên méo về
một bên. Đấy là lần đầu tiên tôi chứng kiến một cái nhà bị đổ. Mọi người đến
hỏi thăm, xuýt xoa chia sẻ. Rồi hỏi “Cu Ngách” có làm sao không?
Sau này tôi thấy mấy anh thanh niên
trạc tuổi Ngách (lúc đó khoảng 12, 13 tuổi) ngêu ngao đọc câu vè, chắc là do
ông Bát sáng tác:
Cơn bão số tám vừa qua
Làm
cho anh Ngách xóm ta rụng rời,
Gió
to quật đổ nhà rồi
Cột
quân đè dí, Ngách thời dập chân.
Chắc đây cũng là kỷ niệm nhớ đời của
chú Ngách. Vài ngày sau đó, tôi thấy mọi người trong xóm vác tre, đem rạ đến
cho chú tôi, mỗi người một ít gom góp để chú tôi dựng lại nhà. Thế rồi cũng
những người ấy lại chẻ lạt, buộc nhứng, trát vách, rồi ai lại về nhà nấy ăn cơm… mỗi người mỗi việc để ngôi nhà nhanh chóng hoàn
thành. Tình làng nghĩa xóm thật sâu đậm.
Phía
trước nhà tôi có một cái ao, lúc nhỏ tôi thấy nó to lắm, sau này lớn lên mới
thấy nó nhỏ. Xung quanh bờ Thầy tôi trồng tre hóa, tre vân, tre trúc và tre
bương. Tre bương thân to nhất, đốt ngắn nhẵn nhụi, màu xanh và không có gai. Lá
tre bương rất to, chúng tôi thường lấy lá gấp thuyền rồi thả xuống ao chơi.
Thân tre bương thường để làm cột nhà, cây lớn làm cột cái, cây nhỏ làm cột
quân. Tre bương còn dùng làm khung vó bè. Có khi còn được dùng làm bắp cày và
mõ mạ. Bắp cày thì ai cũng biết, còn cái mõ mạ chính là cái mà khi làm xướng
mạ, muốn gieo được mạ đều, ít cỏ, sau nhổ mạ dễ thì phải làm cho ruộng mạ thật
phẳng, bằng cách dùng một đoạn tre bương vừa phải, thẳng, đục lỗ cho vừa răng
bừa, cắm răng bừa vào đó khi bừa mạ, gọi là mõ mạ. Từ mõ ở đây chính là chỉ mấy
cái lỗ trên thân cây tre.
Tre
hóa thân thon bằng bắp chân đến bắp tay người lớn, dóng dài khoảng ba tấc, vươn
cao, lá nhỏ và có rất nhiều gai. Thân và lá màu hơi vàng. Bụi tre hóa đan ken
kín vào nhau. Thân tre hóa thường dùng làm kèo, đòn tay, duỗi và rui, mè mái
nhà. Có thể dùng làm gọng vó bè, cây thon nhỏ thì làm gọng vó bẩy. Ngoài ra còn
dùng để làm cán cuốc, cán vồ; đan các dụng cụ bằng tre như rổ, rá, rấng, nong ,
nia, mẹt, thúng, dần, sàng, sọt, bu gà, vây vịt, kên nơm … và có thể đan cả thuyền nan. Cây nào bị kiến đục
lỗ làm tổ, thủng dọc một bên thân gọi là tre mõ ma, thường dùng làm mõ dậm. Tay
tre là những cành mọc dài và to bằng cán dao có thể dùng chẻ lạt buộc nhà, buộc
mạ… Lúc
tay tre còn là cái măng chĩa dài ra, mọi người thường bẻ măng tay tre về nấu
với con rươi, nếu là mùa rươi. Món rươi thì ngon tuyệt, nhưng sẽ nói vào một
dịp khác vậy.
Kể ra
một loạt như vậy nhưng có một số đồ vật giới trẻ sau này không biết đến nữa.
Chẳng hạn như cái nong là để đặt xuống đất cót thóc, cái nong đặt dưới đất,
trước khi đặt phải rải rơm và lá chuối khô xuống chống ẩm, cái cót quây xung
quanh, lấy dây thừng quàng một vòng sau đó đổ thóc vào trong cót; Tôi nhớ có
lần bà Cạm ở xóm gần nhà ông Bát, có mấy tờ 2 hào xanh để cẩn thận trong cót
thóc, chuột vào ăn thóc công luôn cả tiền làm bà cụ khóc mấy ngày.
Cái
nia thì để hứng gạo và trấu dưới cối xay lúa, sau đó để sẩy trấu; sau đó cũng
dùng để đựng khi sàng sẩy, dần gạo, rổi sẩy trấu và bổi ra khỏi gạo. Cũng có
lúc người ta đem cái nia ra để đặt làm chỗ mổ lợn.
Cái
sàng, có hai loại, sàng thưa và sàng dầy. Sàng thưa để sàng gạo ra khỏi trấu.
Còn sàng dầy để sàng tấm ra khỏi gạo. Cái mẹt thì để sẩy bổi gạn lấy tấm sau
khi dần gạo từ cối giã. Cũng có khi dùng cái mẹt lót lá chuối vào để đựng bánh
đúc, có khi đựng cả c[ms, xôi vò. Cái rá thì để vo gạo; cái rấng thì để lọc
cua, lọc cáy;.v.v.
Tre
vân thì thân nhỏ, thấp, đốt ngắn, lá nhỏ và nhiều từ gốc đến ngọn, trồng làm bờ
dậu dọc bờ vườn. Trẻ con hay chặt tre vân dùng làm súng bắn giấy hoặc làm con
khăng để chơi. Lá tre vân còn được lấy để làm búi mồi ngâm giá đỗ, làm lá xông
mỗi khi bị cảm.
Còn
tre trúc thân nhỏ, đốt dài thon từ gốc đến ngọn, màu vàng, lá thưa. Tre trúc
thường để già, chọn những cây dài để làm cần câu cá to như cần câu vút câu cá
chuối, cá sộp; chọn cây nhỏ làm cần câu cá rô, cá giếc, cá ngạo. Cây đốt dài và
to có thể chọn để làm sáo trúc. Tôi cũng đã vài lần được xem anh Khương, chú
Trúc nung dùi để khoét sáo.
Bờ
vườn, bờ ao nhà tôi, thầy tôi trồng cả những bụi mây, nhà ai cũng có mây cả,
vừa dùng để buộc đòn tay nhà, vừa để nức rổ rá, thúng, mẹt, đồ tre đan ...
Nhưng trồng thì phải trồng mây khôn, vừa ít gai, vừa dẻo. Cây mây dại nhiều
gai, giòn, khhong thể dùng để buộc, nức đươc. Nhưng người ta vẫn trồng vì để
rào vườn, chống kẻ gian hoặc lợn gà vào phá. Vì ngày xưa nuôi lợn gà toàn thả
rông chứ không nhốt như bây giờ.
Xung
quanh ao, bám lên cành tre toàn là cây ràn rạt (Có nơi gọi là cây máu đỉa, vì
quả chín màu như máu con đỉa, trông hơi giống quả nho). Cây ràn rạt xõa xuống
mặt ao, phủ kín hườm hàm ếch bờ ao, bên dưới tua tủa rễ tre tạo ra chỗ trú của
cá và ếch nhái. Con nhái bén thường làm tổ đẻ trứng thành một túm bọt trắng và
to, treo lơ lửng, mọi người gọi là trứng bọ ngoác. Những đêm mưa rào, ếch nhái
trú ngụ trong đó nhảy ra kêu vang cả mặt ao.
Ao tuy không rộng nhưng nước trong mát lắm.
Cầu ao bắc đầy đá cuội. Thầy tôi và chú Ngạch chiều đến hễ đi làm đồng về thể
nào cũng xuống tắm.
Tôi
nhớ hồi còn chưa biết bơi, chắc khoảng 5 tuổi gì đó, có một lần tôi xuống ao
tắm cùng với chị Tiến, có cả Hợi – em họ tôi, con chú Ngạch (Cả 2 đều sinh năm
1959), lần ấy tôi bị tụt xuống chỗ sâu, tôi sặc nước, chới với và rất sợ. Một
lúc sau thì chị Tiến trông thấy và túm tay tôi kéo lên. Chậm một tí nữa là có
thể tôi bị chết đuối rồi. Mãi đến năm tôi lên bảy tuổi
mới bơi được qua ao.
Cái ao ấy, sau này các chú thương binh về quê tôi an
dưỡng cũng tắm ở đó, ở nhà tôi có chú Nhận, chú Thi, các chú trọ ở hàng xóm
cũng sang tắm, chúng tôi thường xem các chú tắm vì có một số chú cụt tay, cụt
chân. Có lần chú Biều cụt một tay, thấy chúng tôi xem, chú ấy đưa cả chỗ tay
cụt ra dọa làm chúng tôi chạy tán loạn.
Ngay cạnh bờ ao Thầy tôi trồng một cây khế ngọt, ông xin
giống tận nhà ông Vọng, bạn cùng ở Bắc Giang với Thầy tôi bên Hòa Ung, Ninh
Giang. Cây khế năm nào cũng sai trĩu hoa và đỗ nhiều quả. Quả khế ngọt khi lớn
đẫy rất to, không nhỏ như khế chua. Khi quả mới ra, lúc mới bằng quả nhót to,
thừa lúc người lớn vắng nhà, chúng tôi lén đã ra vườn vạt ăn, nhưng khế non
đắng ngắt không ăn được đành vứt xuống ao. Sau này, những quả chín đầu mùa, Bu
tôi lấy xuống và xẻ từng múi cho chúng tôi ăn thử, lúc đó cái gì mà chẳng ngon,
nhưng vị ngọt của quả khế thì không thể nào quên được. Do cây khế chỉ cách
đường đi một cái bếp, các anh chi đi học rất hay chui rào vào hái trộm. Ngày
nay trẻ con không còn lấy trộm hoa quả nữa, chứ ngày ấy, việc vặt trộm cam,
bưởi, chuối, khế là chuyện bình thường ...
Sau nhà Thầy tôi trồng mấy cây xoan, lúc nhỏ thì tôi
không để ý, khi cây xoan đã cao, chúng tôi hay trèo lên chặt cái cành xoan to
bằng cán cuốc xuống để làm con khăng. Thầy tôi bảo, thầy trồng mấy cây này để
sau làm xà nhà. Tôi nghĩ, nó bé thế thì đến bao giờ mới to mà làm được, Ông
bảo, thế mà không mấy đâu. Cây xoan thân thẳng, mau lớn thật, chỉ mấy năm đã
cao năm sáu mét. Muốn cho cây xoan cao, thẳng mà sau làm được xà phải để nó lên
thật thẳng, không được để gẫy ngọn lúc còn nhỏ, khi cành ngang mọc ra phải róc
đi, để 1 thân thôi, nếu để cành to mới róc thì một là vẹo, hai là sầu; khi nào
đạt hơn 4 m mới để xòe cành ra, nếu không nó sẽ cong. Cây xoan đến mùa ra hoa
thì thật đẹp, hoa xoan màu xanh xanh và tim tím, lẫn với màu trời trắng đục của
mùa xuân mang màu sắc mơ màng ... Thế mà sau này mấy cây xoan to, thầy tôi chặt
xuống ngâm xuống bùn, sau này làm được xà nhà thật.
Không thể nào kể hết được những kỷ niệm êm đềm quanh ngôi
nhà thân thuộc của mình. Những bờ tre, gốc vải, đống rơm, đống rạ, cây cau, cây
dừa, cây khế, cây cam, cây mít, tiếng chim...
Tất cả
những hình ảnh, những âm thanh thánh thót cua gió, của mưa, của nắng, của nước,
của lũy tre, hàng dừa, sáo diều hòa với âm thanh tiếng trẻ thơ vẫn còn rộn rã
trong ký ức, cứ ùa về như tuổi thơ vẫn còn quanh quẩn đâu đây thôi.
CỐI XAY, CỐI GIÃ
Nhà tôi cũng như mọi nhà trong xóm đều có một các cối xay
lúa. Thầy tôi thường để ở chái nhà hướng đông.
Cối xay có thớt dưới, thớt trên, váy cối, chân cối, ngõng
cối nằm ở thớt dưới, tai cối, cổ áo cối nằm ở thớt trên và cái để xay là giàng xay có dây treo.
Lúc bà nội tôi còn khoẻ, bà vẫn thường hay ở nhà xay lúa,
sàng xẩy. Sau này chị Tiến và anh em tôi cũng đều biết xay lúa cả. Tuy nhiên
xay lúa cũng phải biết cách, xay vừa phải, đều tay thì hạt chín nhiều (hạt vỡ
trấu) nếu vội mà xay nhanh, nhất là vớ phải cái cối lồng lên sồng sộc thì sống
hết. Sống nhiều thì sàng xong, bốc ra phải xay lại, lúc đó gạo sẽ bị nát thành
tấm. Lúc xay lúa một mình, bọn gà trống, gà mái hay vào xốc trộm thóc, đuổi
chúng không chạy; thế là lại phải lấy một tàu chuối khô buộc vào một bên tai
cối để đuổi lũ gà. Ngày bé tôi còn thấy bà tôi lấy cái áo tơi rách buộc vào đó
mỗi khi bà xay lúa, đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chiếc áo tơi, vì sau này
mọi người đều dùng nilon để khoác trời mưa nên áo tơi không còn tồn tại ở quê
tôi nữa.
Tuổi thọ của cối xay phụ thuộc vào chất lượng cối và lượng
xay nhiều hay ít. Có nghĩa là chất đất sét, dăm cối và tay nghề thợ đóng cối.
Nhà nhiều người thì năng phải đóng lại hơn. Thường cứ một đến hai năm lại đóng
lại một lần. Dăm cối thường do thợ đóng cối mang đến, thường là bằng gỗ nghiến,
nhưng cũng có khi do gia đình đã chuẩn bị sẵn một ít gỗ nhãn, gỗ vải, thợ đến
lại thêm một khâu chẻ dăm rồi mới vào việc được. Mỗi làng thường có một ông thợ
đóng cối, nhưng hình như ở làng Dừa lại không có, vì tôi thấy thầy tôi hay mời
ông thợ ở Thanh Kỳ hoặc ở Minh Đức sang đóng. Ngày ấy thợ đóng cối thường đến
nửa buổi sớm, làm đến trưa ăn cơm qua quít với gia chủ, đến bữa tối thì cơm
nước mới thịnh soạn hơn, có con gà, con cá, chai rượu gọi là làm vui. Thợ đi
đóng cối cũng chỉ đi kiếm cơm vậy thôi, ngoài tiền dăm cối thì công sá cũng
chẳng là bao, chỉ vài đồng bạc.
Tuy thế, nếu nhà có thợ đóng cối cũng vui ra phết. Chúng
tôi thường xúm xít xung quanh ông thợ, xem thợ ra nan, vót tre, đan lồng cối.
Nếu cối cũ quá thì phải đan tân khoa, việc này hơi lâu, tuy nhiên nếu được gia
chủ đồng ý thì ông thợ đan sẵn ở nhà rồi mang đến đóng luôn. Nếu gia chủ không
có nhiều tiền thì ông thợ phải chặt tre, ra nan, đan lồng tại gia chủ, tất
nhiên tiền công đóng tân khoa sẽ nhiều hơn. Bọn trẻ chúng tôi thường tò mò xem
ông thợ lôi ra từng thứ đồ nghề, trong đó có cưa, vồ to, vồ nhỏ, đòn quai bằng
lim (Trông như cây thiết bản của Tôn Ngộ Không), nêm to, nêm nhỏ, mỏng dầy khác
nhau, liềm vét đất, thích nhất là cái gọi là chân chó. Gọi là các chân chó vì
nó giống hệt các chân chó, ông thợ dùng để miết đất cho nhẵn và để đóng vào
những chỗ ngóc ngách của cối mà vồ không thể làm được.
Sau khi đan hoặc dặm lồng cối, ông thợ xem ngõng cối còn
dùng được không, nếu đã mòn quá thì thay cái ngõng mới, nếu không khi xay một
là gẫy, hai là lồng. Ngõng thường làm bằng gỗ tốt để được lâu, những cái ngõng
cối mòn, chỗ tiếp xúc thắt ngẫng lại rất nhẵn và đẹp, chúng tôi thường lấy để
chơi. Qui trình đóng cối nếu tả lại tỉ mỉ thì nhiều khâu lắm. Tóm lại là thế
này: Đem đất sét khô ra đập nhỏ, rảy nước cho ẩm đều, cho vào lồng cối để nhồi
nện cho chặt. Thớt dưới thì cấy ngõng cối, đặt chân ngõng phải thật chính xác
vào chính giữa, đầu ngõng cũng phải cách đều xung quang nên phải đo đi, đo lại
nhiều lần trong quá trình nhồi đất. Thớt trên thì phải đặt cổ áo cối và cũng
phải làm tương tự như đặt ngõng cối. Khi lượng đất đã đủ và chặt, lật ngược
thớt trên để đóng dăm, thớt dưới để nguyên và đóng dăm. Mỗi thớt đều có 8 múi
dăm, cùng chạy hình lược theo ngược chiều kim đồng hồ, chính vì thế khi lật
thớt trên ngược lại, các múi dăm lại chạy giao nhau, ta xay ngược chiều kim
đồng hồ, các mặt dăm xiết vào nhau và kéo gạo và trấu từ trong ra ngoài. Đóng
dăm xong, ông thợ lấy cái chân chó đục đất ở thớt trên cho thủng xuống tận cổ
áo cối, lấy cái liềm vét đất thành cái phễu thật dốc, đều và nhẵn, lấy chân chó
nêm chặt những chỗ gấp khúc mà vồ và đòn không thể với tới. Đây là chỗ để đổ
thóc vào xay. Sau đó ông thợ lại úp thớt trên xuống, đem thớt dưới úp ngược vào
thớt trên, đoạn nền chặt thêm đáy thớt dưới, lấy liềm vét bằng cho đẹp rồi để
chân cối lên đóng 4 cọc vào để giữ chân cối. Thế là công việc gần như hoàn tất.
Bây giờ chỉ việc lật cối lên, xay thử xem sống chín, lồng em thế nào, lấy nêm
sửa lại một chút nữa, thế là xong.
Sở dĩ tôi tả được tỉ mỉ thế này là vì, đến năm 16 tuổi
tôi đã tự mình đập cối ra đóng. Do rất hiểu về độ cân bằng, độ nghiêng của dăm
cối ở 2 thớt, tôi đóng xong, dù là tác phẩm đầu tay nhưng không hề phải sửa một
chút nào mà xay lúa vẫn rất chín. Tôi nhớ bên hàng xóm ai cũng trầm trồ, có chị
Xuyến là chị dâu họ thì cứ xuýt xoa không ngớt: Sao lại không học ở đâu mà đóng
đước cối mới tài chứ. Thực ra chúng tôi đã học từ những lần xem đóng cối từ nhỏ
rồi, sau này có kiến thức thi việc đó cũng không khó gì cho lắm, có ai không
học mà làm được đâu.
Nói
cối xay lại phải nói thêm đến cối giã gạo. Cả xóm tôi hàng mấy chục nhà mà cũng
chỉ có nhà tôi và nhà ông Bát có cối giã gạo. Tôi cũng không biết có từ bao
giờ, nhưng tuổi thọ chắc đã rất lâu vì đát cối đã thủng một lỗ bằng miệng bát,
đã phải tré bằng xi măng. Xóm trên có nhà ông Kham, ông Chử, xóm ngoài có Bà
Tựa có cối. Cối giã gạo nó gần như một tài sản văn hoá cộng đồng vậy. Chẳng
phải nhà nào có cối giã gạo người ta cũng đến giã đâu, phải là gia đình tử tế,
sạch sẽ, ân cần, dễ tính.
Cối giã gạo gồm có cần
cối, chày, cối đá, tai cối, bệ đứng, tay vịn và chống cối. Chày thường được bịt
thép và có đóng dăm bằng gang lưỡi cày gọi là mỏ cối. Cối đá thường được chôn
dưới đất, miệng bằng mặt đất. Xung quang miệng cối phải đầm, láng thật nhẵn và
sạch để quét gạo và cám trở lại khi giã nó bắn lên. Cần cối là một cây gỗ to,
đẽo vuông, dài khoảng hơn 3 m, nặng, đầu to hơn đuôi. Tai cối thường đục 1/3
phía đuôi cần. Bệ đứng thường liền với bệ đỡ tai cối, đặt và chốt cố định, chắc
chắn trên mặt đất, cao hơn mặt đất chừng 10 đến 15 phân để đứng giã, ở trong
lòng đào lỗ sâu để đuôi cần cối nhún xuống khi bẩy cần cối lên.
Cối nhà tôi đặt ở dưới
bếp, người đến giã gạo thường đem gạo xay đến, dù có người hay không có người ở
nhà thì cũng nói to lên một câu: Tôi giã nhờ cả nhà cối gạo nhá. Nếu bà tôi ở
nhà thế nào cũng nói: Vâng, ai đới? Họ lại bảo: Cháu đơi. Chỉ nghe tiếng bà đã
có thể biết chính xác đấy là ai. Giã gạo là giã nhờ thực sự chứ không như thời
bây giờ cái gì cũng dịch vụ nên không bao giờ nghĩ đến phải trả công sá gì.
Thời điểm người ta đến giã gạo là lúc sau giờ nấu cơm chiều hoặc buổi tối sau
khi ăn cơm tối, hoạ hoằn cũng có người đến giã vào ban sáng và ban trưa. Không
có ai lại đem giã gạo vào lúc nấu cơm vì khói không giã được, với lại lúc đó
nhà ai cũng bận nấu nướng, không có người giã gạo. Dịp gần tết là nhộn nhịp
nhất, nhà nào cũng giã hai ba cối liền lúc vì nào là gạo ăn, nấu xôi lại còn
gói bánh nữa.
Quanh cái cối giã gạo
cũng nhiều chuyện hay ra phết. Mỗi khi giã gạo thường có 2 đến 3 người, hoặc là
cùng giã, hoặc là thay nhau. Mỗi cối gạo giã khoảng 1000 chày là được. Nếu là
người lớn đến giã thì thường nói chuyện thời tiết, mùa màng, mạ mộng, kinh
nghiệm trồng cấy hoặc thông tin chuyện trong làng ngoài xã. Thời chống Mỹ thì
nói những chuyện nghe được trên đài truyền thanh hoặc nghe mấy bác cán bộ kháo
nhau về ta thắng ở đâu, bắn rơi máy bay Mỹ bao nhiêu chiếc.
Mùa đông giã gạo thì ấm chứ mùa hè nóng nực
nhễ nhại mồ hôi chẳng ai thích. Nhà nào mà có mấy anh chị em rãu rãu cùng nhau
giã thì thế nào cũng cãi nhau chõm choẹ. Thứ nhất là tranh nhau đứng trên cho
nhẹ, không bị mỏi chân, chẳng đứa nào muốn đứng dưới cùng vì nặng và mỏi chân
nhất. Nếu không phân giải được thì chia, đứa lớn thì đảm nhiệm hết thời gian và
đứng sau, còn hai đứa bé mỗi đứa 500 chày, lại đến đận tranh nhau giã trước cho
nhẹ vì lúc đó còn trấu, chày nó nẩy, về sau nó mút chày nặng hơn. Đã thế lại
đếm ăn gian nóng mốt nóng hai, có khi mới 400 chày đứa trước đã bảo hết phần
mình chạy ra, thế là lại chõm choẹ lần nữa. Đến cuối buổi có khi chỉ còn mỗi
đứa lớn đảm nhiệm vì không bảo được hai em, hơn nữa cũng đỡ điếc tai. Trường
hợp này hay xảy ra ở anh em nhà chị Thu, anh Đông, chị Xuân hoặc Anh Tuyên, Chị
Mây và Hưng.
Cạnh
nhà tôi có vợ chồng anh Chư, chị Xuyến sinh được toàn con gái, lúc tôi 16, 17
tuổi thì cũng chỉ mới có đứa lớn là đi giã gạo với bố mẹ được. Anh Chư là bộ
đội phục viên, cũng rất hài hước. Khi bắt đầu giã gạo anh thường bảo với con
gái: Cuộc hành quân thần tốc không di chuyển vị trí của bố con ta bắt đầu. Có
hôm vừa giã gạo, anh vừa giảng giải cho con gái lớn cách dỗ em rất qui lát:
-Thế
này nhé, khi bố mẹ vắng nhà, nếu trông em mà thấy em khóc thì có một trong ba
nguyên nhân sau đây:
Thứ
nhất là đói, lập tức lấy cơm nguội cho em ăn, nghe chưa?
Thứ
hai, nếu vẫn khóc thì có thể nóng quá hoặc lạnh quá: Nóng thì quạt, lạnh thì ủ
ấm thêm;
Thứ
ba, nếu vẫn tiếp tục khóc thì đích thị là ốm, lập tức bế em sang hàng xóm nhờ
xem hộ ngay.
Nhớ
chưa?
Đứa
con thì vâng ạ còn chị Xuyến thì cứ cười ngặt cười nghẽo nghẽo vì cách nói hài
hước quân sự của chồng.
Giã
gạo mà nên thơ nhất là có đôi nào thích nhau, tối mùa đông mà theo nhau đi giã
gạo thì cứ gọi là yên thít, chỉ thấy tiềng chày lúc khoan, lúc nhặt lẫn với
tiếng trêu ghẹo nhau khúc khích thôi. Nếu gặp cô nào xinh thì thế nào cũng có
vài anh đi theo tranh nhau giã cùng.
Chính
vì những lý do này mà tôi nói, cái cối giã gạo giống như một tài sản văn hoá
cộng đồng vậy.
Đến
những năm 1991, 1992 gì đó thì nhà tôi và nhà chú Ân có mua chung một cái máy
xát gạo, xát thuê cho hàng xóm. Lúc đó chưa có điện, máy xát phải chạy bằng một
cái máy diezen 15 mã lực, inh cả tai. Máy do Tú con chú Ân, và Trường em trai
tôi vận hành. Lúc đó tôi học ở Học viện Chính trị, những ngày nghỉ hè thỉnh
thoảng cũng đứng máy thay cho các em. Có một lần máy chạy long lên sòng sọc,
rung bần bật không thể nào xát được gạo, nếu tiếp tục chạy nó sẽ phá tan cả máy
nổ và máy xát. Không ai biết nguyên nhân tại sao. Tôi lấy sơ đồ tổng thành của
máy ra đọc, thuyết minh toàn bằng chữ Trung Quốc, nhưng tôi bập bõng đọc được.
Cộng với kiến thức về máy của xe tăng đã học trước đó, tôi đưa ra nhận định:
-Có
thể máy bị gãy trục của quả đối trọng.
Tú lúc
đó mới bảo:
-À
đúng rồi anh ạ, nó là quả văng anh ạ (Tú cũng đi thuyền và cũng biết về máy nổ nên
gọi nó là quả văng)
Thế là
tôi và Tú tháo máy ra kiểm tra, đúng như dự đoán, máy bị gãy trục quả đối trọng
-“Quả văng”. Tôi bảo Tú lên huyện mua
quả đối trọng về để thay, tôi và Tú hì hục tháo ra thay quả mới vào. Có rất
nhiều các điểm dấu trên các bánh xe, trục cam cần ghi nhớ, nếu lắp sai máy sẽ
không nổ, điều ấy tôi đã để ý và học được trong lần tháo máy này. Khi lắp xong,
máy lại chạy êm ru. Đấy là lần đầu tôi sửa máy Diezen và đã thành công. Sau này
có điện, máy xát chạy bằng moter điện, tiện lợi hơn nhiều. Nhưng cũng từ đây,
cái cối xay lúa và cái cối giã gạo mỗi ngày một vắng bóng đi rồi mất hẳn. Nhưng
trong lòng vẫn nhớ như in hình ảnh của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét