Nhà tôi cũng như mọi nhà trong
xóm đều có một các cối xay lúa. Thầy tôi thường để ở chái nhà hướng đông.
Cối xay có thớt dưới, thớt trên, váy cối, chân cối, ngõng
cối nằm ở thớt dưới, tai cối, cổ áo cối nằm ở thớt trên và cái để xay là giàng xay có dây treo.
Lúc bà nội tôi còn khoẻ, bà vẫn thường hay ở nhà xay lúa,
sàng xẩy. Sau này chị Tiến và anh em tôi cũng đều biết xay lúa cả. Tuy nhiên
xay lúa cũng phải biết cách, xay vừa phải, đều tay thì hạt chín nhiều (hạt vỡ
trấu) nếu vội mà xay nhanh, nhất là vớ phải cái cối lồng lên sồng sộc thì sống
hết. Sống nhiều thì sàng xong, bốc ra phải xay lại, lúc đó gạo sẽ bị nát thành
tấm. Lúc xay lúa một mình, bọn gà trống, gà mái hay vào xốc trộm thóc, đuổi
chúng không chạy; thế là lại phải lấy một tàu chuối khô buộc vào một bên tai
cối để đuổi lũ gà. Ngày bé tôi còn thấy bà tôi lấy cái áo tơi rách buộc vào đó
mỗi khi bà xay lúa, đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chiếc áo tơi, vì sau này
mọi người đều dùng nilon để khoác trời mưa nên áo tơi không còn tồn tại ở quê
tôi nữa.
Cối xay lúa |
Tuổi thọ của cối xay phụ thuộc vào chất lượng cối và lượng
xay nhiều hay ít. Có nghĩa là chất đất sét, dăm cối và tay nghề thợ đóng cối.
Nhà nhiều người thì năng phải đóng lại hơn. Thường cứ một đến hai năm lại đóng
lại một lần. Dăm cối thường do thợ đóng cối mang đến, thường là bằng gỗ nghiến,
nhưng cũng có khi do gia đình đã chuẩn bị sẵn một ít gỗ nhãn, gỗ vải, thợ đến
lại thêm một khâu chẻ dăm rồi mới vào việc được. Mỗi làng thường có một ông thợ
đóng cối, nhưng hình như ở làng Dừa lại không có, vì tôi thấy thầy tôi hay mời
ông thợ ở Thanh Kỳ hoặc ở Minh Đức sang đóng. Ngày ấy thợ đóng cối thường đến
nửa buổi sớm, làm đến trưa ăn cơm qua quít với gia chủ, đến bữa tối thì cơm
nước mới thịnh soạn hơn, có con gà, con cá, chai rượu gọi là làm vui. Thợ đi
đóng cối cũng chỉ đi kiếm cơm vậy thôi, ngoài tiền dăm cối thì công sá cũng
chẳng là bao, chỉ vài đồng bạc.
Tuy thế, nếu nhà có thợ đóng cối cũng vui ra phết. Chúng
tôi thường xúm xít xung quanh ông thợ, xem thợ ra nan, vót tre, đan lồng cối.
Nếu cối cũ quá thì phải đan tân khoa, việc này hơi lâu, tuy nhiên nếu được gia
chủ đồng ý thì ông thợ đan sẵn ở nhà rồi mang đến đóng luôn. Nếu gia chủ không
có nhiều tiền thì ông thợ phải chặt tre, ra nan, đan lồng tại gia chủ, tất
nhiên tiền công đóng tân khoa sẽ nhiều hơn. Bọn trẻ chúng tôi thường tò mò xem
ông thợ lôi ra từng thứ đồ nghề, trong đó có cưa, vồ to, vồ nhỏ, đòn quai bằng
lim (Trông như cây thiết bản của Tôn Ngộ Không), nêm to, nêm nhỏ, mỏng dầy khác
nhau, liềm vét đất, thích nhất là cái gọi là chân chó. Gọi là các chân chó vì
nó giống hệt cái chân chó, ông thợ dùng để miết đất cho nhẵn và để đóng vào
những chỗ ngóc ngách của cối mà vồ không thể làm được.
Sau khi đan hoặc dặm lồng cối, ông thợ xem ngõng cối còn
dùng được không, nếu đã mòn quá thì thay cái ngõng mới, nếu không khi xay một
là gẫy, hai là lồng. Ngõng thường làm bằng gỗ tốt để được lâu, những cái ngõng
cối mòn, chỗ tiếp xúc thắt ngẫng lại rất nhẵn và đẹp, chúng tôi thường lấy để
chơi.
Qui trình đóng cối nếu tả lại tỉ mỉ thì nhiều khâu lắm.
Tóm lại là thế này: Đem đất sét khô ra đập nhỏ, rảy nước cho ẩm đều, cho vào
lồng cối để nhồi nện cho chặt. Thớt dưới thì cấy ngõng cối, đặt chân ngõng phải
thật chính xác vào chính giữa, đầu ngõng cũng phải cách đều xung quang nên phải
đo đi, đo lại nhiều lần trong quá trình nhồi đất. Thớt trên thì phải đặt cổ áo
cối và cũng phải làm tương tự như đặt ngõng cối. Khi lượng đất đã đủ và chặt,
lật ngược thớt trên để đóng dăm, thớt dưới để nguyên và đóng dăm. Mỗi thớt đều
có 8 múi dăm, cùng chạy hình lược theo ngược chiều kim đồng hồ, chính vì thế
khi lật thớt trên ngược lại, các múi dăm lại chạy giao nhau, ta xay ngược chiều
kim đồng hồ, các mặt dăm xiết vào nhau và kéo gạo và trấu từ trong ra ngoài.
Đóng dăm xong, đến khâu nêm. Đầu tiên là dùng nêm mỏng, đóng nêm thật sâu cho
chắc dần. Tiếp theo nêm vừa vừa. Cuối cùng là nêm dày nhất, lúc đó đất đã chắc
lên đến tận mặt nêm. Quá trình nêm là quá trình người thợ thường xuyên ngắm để
chỉnh mặt dăm cho thật phẳng và đều, chỗ nào còn nhô lên lại lấy vồ gõ vào đó
cho tụt xuống một chút. Nếu đất chắc rồi, gõ không xuống nữa hoặc sợ long dăm
thì ông thợ sẽ lấy dao sắc để gọt, chỉnh cho bằng. Xong khâu đóng dăm, ông thợ
lấy cái chân chó đục đất ở thớt trên cho thủng xuống tận cổ áo cối, lấy cái
liềm vét đất thành cái phễu thật dốc, đều và nhẵn, lấy chân chó nêm chặt những
chỗ gấp khúc mà vồ và đòn không thể với tới. Đây là chỗ để đổ thóc vào xay. Sau
đó ông thợ lại úp thớt trên xuống, đem thớt dưới úp ngược vào thớt trên, đoạn
nện chặt thêm đáy thớt dưới, lấy liềm vét bằng cho đẹp rồi để chân cối lên đóng
4 cọc vào để giữ chân cối. Thế là công việc gần như hoàn tất. Bây giờ chỉ việc
lật cối lên, xay thử xem sống chín, lồng êm thế nào, lấy nêm sửa lại một chút
nữa, khi thóc xay chín thế là xong.
Nếu xay thử vẫn sống, (tức là còn nhiều thóc chưa vỡ) thì
ông thợ lại bảo: Mấy hôm nữa nó mòn đều dăm rồi nó sẽ chín. Cũng có khi là đúng
như thế, cũng có khi không phải thế vì ông thợ chỉ vụng chèo, khéo chống thôi.
Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước, đàn ông, trai
tráng đều đi tham gia đánh Mỹ, ở lại hậu phương còn toàn là các cô, các thím,
các chị. Có nhiều trai tráng, trong đó có những người chồng, người cha đã hi
sinh ngoài mặt trận, các cô các thím ở nha bỗng dưng trở thành góa phụ, có
người còn chưa có con cái rất cám cảnh.
Đóng cối cho mấy bà góa, mấy ông thợ đóng cối thường làm
rầy rà nhất. Khi đến nhà cũng bày trò đến muộn để mong ngủ trọ lại một đêm. Lúc
đóng cối xong còn cố ý để cối sống, cối lồng để mấy hôm sau quay lại sửa. Mục
đích của mấy ông này là để trêu ghẹo, lạm dụng tình cảm của mấy bà góa phụ mà
thôi, nên mới nghĩ ra chiêu trò ấy. Tuy nhiên không phải ai cũng cắn câu. Có bà
ý tứ đem ông đóng cối sang gửi ngủ nhờ bên hàng xóm, nhà có đàn ông để đỡ mang
tiếng, dư luận xì xầm. Ai cũng hiểu chiêu trò này của mấy ông thợ đóng cối tham
tình, tham ngãi. Chính vì thế người ta hay trêu mấy bà góa: Thấy bảo hôm nay
bên nhà bà có phó cối hử? Phấn khởi nhỉ. Thế là mấy bà lại cười ngặt nghẽo bảo:
Báu lắm đấy.
Đóng cối nghe có vẻ rất khó, thế nhưng nếu nhanh ý và
quan sát tỉ mỉ một chút cũng có thể làm được. Đến năm 16, 17 tuổi gì đó tôi đã
tự mình đập cối nhà mình ra đóng. Do rất hiểu về độ cân bằng, độ nghiêng của
dăm cối ở hai thớt cối, tôi đóng xong, dù là tác phẩm đầu tay nhưng không hề
phải sửa một chút nào mà xay lúa vẫn rất chín. Tôi nhớ bên hàng xóm ai cũng
trầm trồ, có chị Xuyến là chị dâu họ thì cứ xuýt xoa không ngớt: Sao lại không
học ở đâu mà đóng đước cối mới tài chứ. Thực ra chúng tôi đã học từ những lần
xem đóng cối từ nhỏ rồi, sau này có kiến thức thi việc đó cũng không khó gì cho
lắm, có ai không học mà làm được đâu.
Nói
cối xay lại phải nói thêm đến cối giã gạo. Cả xóm tôi hàng mấy chục nhà mà cũng
chỉ có nhà tôi và nhà ông Bát có cối giã gạo. Tôi cũng không biết có từ bao
giờ, nhưng tuổi thọ chắc đã rất lâu vì đát cối đã thủng một lỗ bằng miệng bát,
đã phải tré bằng xi măng. Xóm trên có nhà ông Kham, ông Chử, xóm ngoài có Bà
Tựa có cối. Cối giã gạo nó gần như một tài sản văn hoá cộng đồng vậy. Chẳng
phải nhà nào có cối giã gạo người ta cũng đến giã đâu, phải là gia đình tử tế,
sạch sẽ, ân cần, dễ tính.
Cối giã gạo |
Cối giã gạo gồm có cần
cối, chày, cối đá, tai cối, bệ đứng, tay vịn và chống cối. Chày thường được bịt
thép và có đóng dăm bằng gang lưỡi cày gọi là mỏ cối. Cối đá thường được chôn
dưới đất, miệng bằng mặt đất. Xung quang miệng cối phải đầm, láng thật nhẵn và
sạch để quét gạo và cám trở lại khi giã nó bắn lên. Cần cối là một cây gỗ to,
đẽo vuông, dài khoảng hơn 2 m, nặng, đầu to hơn đuôi. Cần cối nhà tôi làm bằng
gỗ lim, cây gỗ này nghe đâu do bác Thiện (Bố anh Tranh) mò cái cột đình ở cầu
đá mang về. Tai cối thường đục 1/3 phía đuôi cần. Bệ đứng thường liền với bệ đỡ
tai cối, đặt và chốt cố định, chắc chắn trên mặt đất, cao hơn mặt đất chừng 10
đến 15 phân để đứng giã, ở trong lòng đào lỗ sâu để đuôi cần cối nhún xuống khi
bẩy cần cối lên.
Cối nhà tôi đặt ở dưới
bếp, thực ra trước đây là cối nhà bác Thiện, nhưng vì chái nhà bác mưa hắt nên
bác đem qua bếp nhà tôi. Người đến giã gạo thường đem gạo xay đến, dù có người
hay không có người ở nhà thì cũng nói to lên một câu: Tôi giã nhờ cả nhà cối
gạo nhá. Nếu bà tôi ở nhà thế nào cũng nói: Vâng, ai đới? Họ lại bảo: Cháu đơi.
Chỉ nghe tiếng bà đã có thể biết chính xác đấy là ai. Giã gạo là giã nhờ thực
sự chứ không như thời bây giờ cái gì cũng dịch vụ nên không bao giờ nghĩ đến
phải trả công sá gì. Thời điểm người ta đến giã gạo là lúc sau giờ nấu cơm
chiều hoặc buổi tối sau khi ăn cơm tối, hoạ hoằn cũng có người đến giã vào ban
sáng và ban trưa. Không có ai lại đem giã gạo vào lúc nấu cơm vì khói không giã
được, với lại lúc đó nhà ai cũng bận nấu nướng, không có người giã gạo. Dịp gần
tết là nhộn nhịp nhất, nhà nào cũng giã hai ba cối liền lúc vì nào là gạo ăn,
nấu xôi lại còn gói bánh nữa.
Quanh cái cối giã gạo
cũng nhiều chuyện hay ra phết. Mỗi khi giã gạo thường có 2 đến 3 người, hoặc là
cùng giã, hoặc là thay nhau. Mỗi cối gạo giã khoảng một nghìn chày là được. Nếu
là người lớn đến giã thì thường nói chuyện thời tiết, mùa màng, mạ mộng, kinh
nghiệm trồng cấy hoặc thông tin chuyện trong làng ngoài xã. Thời chống Mỹ thì
nói những chuyện nghe được trên đài truyền thanh hoặc nghe mấy bác cán bộ kháo
nhau về ta thắng ở đâu, bắn rơi máy bay Mỹ bao nhiêu chiếc.
Mùa đông giã gạo thì ấm chứ mùa hè nóng nực
nhễ nhại mồ hôi chẳng ai thích. Nhà nào mà có mấy anh chị em rãu rãu cùng nhau
giã thì thế nào cũng cãi nhau chõm choẹ. Thứ nhất là tranh nhau đứng trên cho
nhẹ, không bị mỏi chân, chẳng đứa nào muốn đứng dưới cùng vì nặng và mỏi chân
nhất. Nếu không phân giải được thì chia, đứa lớn thì đảm nhiệm hết thời gian và
đứng sau, còn hai đứa bé mỗi đứa 500 chày, lại đến đận tranh nhau giã trước cho
nhẹ vì lúc đó còn trấu, chày nó nẩy, về sau nó mút chày nặng hơn. Đã thế lại
đếm ăn gian nóng mốt nóng hai, có khi mới 400 chày đứa trước đã bảo hết phần
mình chạy ra, thế là lại chõm choẹ lần nữa. Đến cuối buổi có khi chỉ còn mỗi đứa
lớn đảm nhiệm vì không bảo được hai em, hơn nữa cũng đỡ điếc tai. Trường hợp
này hay xảy ra ở anh em nhà chị Thu, anh Đông, chị Xuân hoặc Anh Tuyên, Chị Mây
và Hưng.
Cạnh
nhà tôi có vợ chồng anh Chư, chị Xuyến sinh được toàn con gái, lúc tôi 16, 17
tuổi thì cũng chỉ mới có đứa lớn là đi giã gạo với bố mẹ được. Anh Chư là bộ
đội phục viên, cũng rất hài hước. Khi bắt đầu giã gạo anh thường bảo với con
gái: Cuộc hành quân thần tốc không di chuyển vị trí của bố con ta bắt đầu. Có
hôm vừa giã gạo, anh vừa giảng giải cho con gái lớn cách dỗ em rất qui lát:
-Thế
này nhé, khi bố mẹ vắng nhà, nếu trông em mà thấy em khóc thì có một trong ba
nguyên nhân sau đây:
Thứ
nhất là đói, lập tức lấy cơm nguội cho em ăn, nghe chưa?
Thứ
hai, nếu vẫn khóc thì có thể nóng quá hoặc lạnh quá: Nóng thì quạt, lạnh thì ủ
ấm thêm;
Thứ
ba, nếu vẫn tiếp tục khóc thì đích thị là ốm, lập tức bế em sang hàng xóm nhờ
xem hộ ngay.
Nhớ
chưa?
Đứa
con thì vâng ạ còn chị Xuyến thì cứ cười ngặt cười nghẽo nghẽo vì cách nói hài
hước quân sự của chồng.
Giã
gạo mà nên thơ nhất là có đôi nào thích nhau, tối mùa đông mà theo nhau đi giã
gạo thì cứ gọi là yên thít, chỉ thấy tiềng chày lúc khoan, lúc nhặt lẫn với
tiếng trêu ghẹo nhau khúc khích thôi. Nếu gặp cô nào xinh thì thế nào cũng có
vài anh đi theo tranh nhau giã cùng.
Chính
vì những lý do này mà tôi nói, cái cối giã gạo giống như một tài sản văn hoá
cộng đồng vậy.
Đến
những năm 1991, 1992 gì đó thì nhà tôi và nhà chú Ân có mua chung một cái máy
xát gạo, xát thuê cho hàng xóm. Lúc đó chưa có điện, máy xát phải chạy bằng một
cái máy diezen 15 mã lực, inh cả tai. Máy do Tú con chú Ân, và Trường em trai
tôi vận hành. Lúc đó tôi học ở Học viện Chính trị, những ngày nghỉ hè thỉnh
thoảng cũng đứng máy thay cho các em. Có một lần máy chạy long lên sòng sọc,
rung bần bật không thể nào xát được gạo, nếu tiếp tục chạy nó sẽ phá tan cả máy
nổ và máy xát. Không ai biết nguyên nhân tại sao. Tôi lấy sơ đồ tổng thành của
máy ra đọc, thuyết minh toàn bằng chữ Trung Quốc, nhưng tôi bập bõng đọc được.
Cộng với kiến thức về máy của xe tăng đã học trước đó, tôi đưa ra nhận định:
-Có
thể máy bị gãy trục của quả đối trọng.
Tú lúc
đó mới bảo:
-À
đúng rồi anh ạ, nó là quả văng anh ạ (Tú cũng đi thuyền và cũng biết về máy nổ
nên gọi nó là quả văng)
Thế là
tôi và Tú tháo máy ra kiểm tra, đúng như dự đoán, máy bị gãy trục quả đối trọng
-“Quả văng”. Tôi bảo Tú lên huyện mua
quả đối trọng về để thay, tôi và Tú hì hục tháo ra thay quả mới vào. Có rất
nhiều các điểm dấu trên các bánh xe, trục cam cần ghi nhớ, nếu lắp sai máy sẽ
không nổ, điều ấy tôi đã để ý và học được trong lần tháo máy này. Khi lắp xong,
máy lại chạy êm ru. Đấy là lần đầu tôi sửa máy Diezen và đã thành công. Sau này
có điện, máy xát chạy bằng moter điện, tiện lợi hơn nhiều. Nhưng cũng từ đây,
cái cối xay lúa và cái cối giã gạo mỗi ngày một vắng bóng đi rồi mất hẳn. Nhưng
trong lòng vẫn nhớ như in hình ảnh của nó.