Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

VỀ LỜI BÀI HÁT: HÀNH KHÚC LLVT QUẢNG NINH

Hành khúc LLVT Quảng Ninh

                                                                   Nhạc : Đỗ Hòa An, 
                                                                Lời: Cán bộ, chiến sĩ Bộ CHQS tỉnh
Bản quyền Bộ CHQS tỉnh

Năm 2012 nhân kỷ niệm 65 năm LLVT Quảng Ninh, Phòng Chính trị có đề xuất với đồng chí Thiếu tướng Trần Thành, LLVT Quảng Ninh nên có một bài hát truyền thống của mình. Đề xuất được tập thể Thường vụ đồng ý.
Lúc đó tôi Nguyễn Trung Trịnh (Lúc đó là CNCT), đồng chí Trần Đình Trách là Phó CNCT. Chúng tôi gửi cuốn Lịch sử quân sự của LLVT tỉnh và cuốn Quảng Ninh những trận đánh tiêu biếu để Nhạc sĩ Đỗ Hòa An nghiên cứu lấy tư liệu và cảm hứng sáng tác. Khoảng hơn 1 tuần thì Nhạc sĩ gửi lời hát vào để tôi và anh Trách duyệt.
Bài hát được nhạc sĩ Đỗ Hòa An sáng tác có âm hưởng, nhịp điệu, ca từ rất hay. Phần ca từ đã được tôi và anh Trần Đình Trách góp ý với nhạc sĩ sửa (Phần nghiêng không chân), sau đó được tập thể cán bộ chỉ huy và cơ quan đóng góp (Phần nghiêng gạch chân) rất hay và mang đầy ý nghĩa.

1.     Ta hát về truyền thống vẻ vang
                                      Sáng mãi ngàn năm Bộ đội Cụ Hồ
Ta hát về những chiến thắng vẻ vang
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh
Đã viết lên những trang sử vàng

Từ Đệ tứ chiến khu Đông Triều
Nơi chiếc nôi cách mạng quê ta
Dân đứng lên nhất tề
Du kích quân lớn mạnh
Vùng than phá xiềng đứng lên
Lực lượng vũ trang quân lớn mạnh
Vai sát vai, quyết chí và đồng tâm
Quân với dân một lòng
Ta quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Từ địa đầu Hải Ninh
Đến liên tỉnh Quảng Hồng
Từ làng quê, xóm thôn
Đến phố thợ, nhà máy

Lịch sử bản hùng ca
Đánh thắng ngay trận đầu
Cờ hồng tung cánh bay
Khắp đất trời đông bắc

Nền quốc phòng toàn dân
 Vững mạnh và toàn diện
 Đoàn kết và Sáng tạo;
 kiên trung và bất khuất

Nền quốc phòng toàn dân
 Vững mạnh và toàn diện
 Đoàn kết và Sáng tạo;
 kiên trung và bất khuất

                  *
                *   *
2. Ta hát về truyền thống vẻ vang
                                      Sáng mãi ngàn năm Bộ đội Cụ Hồ
Ta hát về những chiến thắng vẻ vang
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh
Đã viết lên những trang sử vàng

Từ Đệ tứ chiến khu Đông Triều
Nơi chiếc nôi cách mạng quê ta
Dân đứng lên Nhất tề
Du kích quân lớn mạnh
Vùng than phá xiềng đứng lên
Lực lượng vũ trang quân lớn mạnh
Vai sát vai, quyết chí và đồng tâm
Quân với dân một lòng
Ta quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Từ địa đầu Hải Ninh
Đến liên tỉnh Quảng Hồng
Từ làng quê, xóm thôn
Đến phố thợ, nhà máy

Lịch sử bản hùng ca
Đánh thắng ngay trận đầu
Cờ hồng tung cánh bay
Khắp đất trời đông bắc

 Nền quốc phòng toàn dân
 Vững mạnh và toàn diện
 Đoàn kết và Sáng tạo;
 kiên trung và bất khuất

Lực lượng vũ trang Quảng Ninh, đã đi là quyết thắng.
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh, đã đi là chiến thắng.

Sau một thời gian các đội văn nghệ thể hiện đã được cán bộ chiến sĩ hưởng ứng nhiệt liệt. Nhưng phần điệp khúc nhắc lại đến 3 lần ở khổ 4 câu, nên nhiều người có ý kiến là giai điệu hay nhưng hơi lê thê (Từ câu Từ địa đầu Hải Ninh.... đến câu ... bất khuất). Bản thân tôi cũng thấy như vậy. Do đó tôi đề xuất nên để khổ thứ 3 không hát ở đoạn 1, mà chuyển sang đoạn hai mới hát.
Nó hợp lý ở chỗ để đoạn 1 ca ngợi truyền thống trong các cuộc kháng chiến. Còn đoạn 2 vừa phát huy, nối tiếp truyền thống, vừa nói nên gia đoạn xây dựng nền Quốc phòng vững mạnh trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc và đúc kết thành truyền thống 10 chữ vàng.
Khổ ca từ ở đoạn 1 là:
Từ địa đầu Hải Ninh
               Đến liên tỉnh Quảng Hồng
Từ làng quê, xóm thôn
Đến phố thợ, nhà máy
Ở đoạn 2 đề xuất nên sửa mới là (Phần in đứng gạch chân):
Từ địa đầu Biên cương
Đến biển đảo rộng dài
Từ núi rừng, suối khe
Đến phố phường, nương rẫy
Như vậy cho phù hợp với Quảng Ninh vừa có biên giới, vừa có biển đảo, vừa có đô thị, vừa có đồng ruộng vùng đồng bào thiểu số là nương rẫy đúng như “Một Việt Nam thu nhỏ”. Hơn nữa đến đoạn này cũng không còn địa danh Hải Ninh nữa, mà là TP Móng Cái rồi. Đồng thời bài hát không nhàm chán mà dễ nhớ.
Một đề xuất nữa là câu:
          Đoàn kết và sáng tạo
Trung kiên và bất khuất
Nên đảo từ Trung kiên lên trước từ sáng tạo:
Đoàn kết và trung kiên
Sáng tạo và bất khuất
Cho phù hợp với giai điệu, vì để như cũ thường hát là sáng tao, không hát được từ sáng tạo.
Thay đổi trật tự từ trong bài hát có thể chấp nhận được vì trong nghệ thuật có tính ước lệ, và thay đổi cũng không làm mất đi bản chất, ý nghĩa của nó. Hơn nữa ngay trong bài hát, từ chiến thắng cũng đã để tách hẳn khỏi 8 chữ trước đến tận cuối cùng.
Sau khi sửa, toàn văn lời hát như sau:

1.     Ta hát về truyền thống vẻ vang
                                      Sáng mãi ngàn năm Bộ đội Cụ Hồ
Ta hát về những chiến thắng vẻ vang
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh
Đã viết lên những trang sử vàng

Từ Đệ tứ chiến khu Đông Triều
Nơi chiếc nôi cách mạng quê ta
Dân đứng lên Nhất tề - Du kích quân lớn mạnh
Vùng than phá xiềng đứng lên
Lực lượng vũ trang quân lớn mạnh
Vai sát vai, quyết chí và đồng tâm
Quân với dân một lòng
Ta quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Từ địa đầu Hải Ninh
Đến liên tỉnh Quảng Hồng
Từ làng quê, xóm thôn
Đến phố thợ, nhà máy

Lịch sử bản hùng ca
Đánh thắng ngay trận đầu
Cờ hồng tung cánh bay
Khắp đất trời đông bắc

*
*  *
2. Ta hát về truyền thống vẻ vang
                                      Sáng mãi ngàn năm Bộ đội Cụ Hồ
Ta hát về những chiến thắng vẻ vang
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh
Đã viết lên những trang sử vàng

Từ Đệ tứ chiến khu Đông Triều
Nơi chiếc nôi cách mạng quê ta
Dân đứng lên nhất tề - Du kích quân lớn mạnh
Vùng than phá xiềng đứng lên
Lực lượng vũ trang quân lớn mạnh
Vai sát vai, quyết chí, đồng tâm
Quân với dân một lòng
Ta quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Từ địa đầu Biên cương
Đến biển đảo rộng dài
Từ núi rừng, suối khe
Đến phố phường, nương rẫy

Nền quốc phòng toàn dân
Vững mạnh và toàn diện
Đoàn kết và kiên trung;
Sáng tạo và bất khuất

Lực lượng vũ trang Quảng Ninh, đã đi là quyết thắng.
Lực lượng vũ trang Quảng Ninh, đã đi là chiến thắng.

Chúng ta xác định tập lại vất vả một chút nhưng bài hát sẽ tăng ý nghĩa, hay và đẹp hơn.

Ghi chép: Nguyễn Trung Trịnh

BỨC THƯ GỬI CON

            22/12/2012
Các con thân yêu của bố!
          Trên 50 năm qua, nhìn lại mới thấy rằng, trong cuộc sống của mình, bố học được rất nhiều thứ. Bố học ở cha mẹ, thầy cô, làng xóm, bạn bè, đồng đội, ở mẹ con, ở các con và trong cuộc sống hàng ngày, như nhân gian thường nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Có những điều bố học do để ý, có những điều vô tình và cả những điều vô thức, mà đã học được biết bao điều bổ ích. Liệt kê lại cũng thấy thật công phu.
Các con hãy đọc, nhưng phải đọc hết, đừng bỏ giữa chừng. Dưới đây có thể liệt kê một vài dòng về những điều ấy:
Lúc trẻ bố cũng rất tự hào về những điều mình biết. Càng về sau này bố càng giấu niềm tự hào vào trong sâu thẳm tâm hồn, chỉ biết tự hào với mỗi người mà bố rất đỗi yêu thương đó là mẹ của các con. Chỉ có một vài thứ bố không tự hào là bố biết hút thuốc lá và đôi khi uống rượu, mẹ không buồn nhưng lại rất lo.
Bố mong các con dành nhiều thời gian để học và hành, học và hành được càng nhiều càng quí, học những thứ to tát trước, những thứ thiết thực trước, những điều nho nhỏ sau. Nhưng cho dù to, nhỏ thì tất cả những điều ấy đến một lúc nào đó cũng đều có ích, nếu không thì cũng là những điều thú vị trong cuộc sống.
Các con nên nhớ, những điều học được vào một lúc nào đó sẽ phục vụ cho cuộc sống (nên nhớ là cuộc sống tươi đẹp), không phải để hại một ai đó. Và những điều ấy cũng không phải để đem khoe khoang, đánh bóng trước mọi người. Nếu đem ra khoe khoang, không những chẳng ích gì mà thậm chí còn dẫn đến phiền toái nhiều hơn là có lợi.
Nếu con đem khoe với bậc bề trên con, người ta có thể nói con là đồ "ngựa non háu đá, trứng không hơn vịt". Sự thật là con có thể sẽ bị họ dìm hàng và hạ bệ nếu họ là người ích kỷ. Nếu con đem khoe với người ngang với con, có thể người ta nói con tưởng thế là tài, rồi có thể vì lòng đố kị mà con mất đi một người bạn. Nếu con đem khoe mà gặp bậc anh tài, người ta sẽ cười con là múa rìu qua mắt thợ. Thế người ta mới có câu: Tự kiêu là giật lùi là vì thế. Trong lịch sử nói chung, trong đó có cả lịch sử Dân tộc ta, biết bao các bậc trung thần, nghĩa hiệp, tài giỏi hơn người cuối cùng đều bị bề trên hoặc gian thần bức hại, đến lúc được minh oan thì đã trở thành người thiên cổ.
Gặp những người tri âm, tri kỷ, hiểu ta, phục ta thì hiếm lắm. Nhưng những người ấy lại có thể chẳng giúp được gì nhiều bởi “lực bất tòng tâm”, họ có thể còn chưa bằng ta ấy chứ. Thế nên ta lại phải trong vai người tri âm, tri kỷ với bạn bè mình, giúp đỡ họ, khéo léo đấu tranh cho họ để họ tiến bộ.
Hôm nay bố không khoe với các con những gì bố có, bởi nó mới chỉ là những hạt cát trong sa mạc mênh mông của kiến thức nhân loại. Mà bố muốn các con nhìn thấy, kiến thức biết bao nhiêu thứ như thế, có thể hơn người mà không biết dùng nó đúng cách, phỏng có ích gì. Như bố vẫn chỉ là một người rất bình thường trong xã hội. Đến lúc này, những điều bố biết chỉ còn là những điều thú vị mà thôi. Nếu bố không nói những điều này với các con, để các con tự hiểu ra thì rồi đây tuổi đời đã luống, liệu có còn cơ hội để phát huy cho sự nghiệp, để xứng đáng với những gì ta có và xã hội cần ta.
Nếu con thấy những người không hiểu biết bằng mình nhưng họ vì một lý do nào đó mà đứng ở vị trí cao hơn, các con cũng đừng bao giờ so sánh và ganh tị. Bởi chắc chắn họ có thể hơn ta ở một điểm nào đó. Còn họ không hơn ta ở một điểm gì thì cũng không cần thiết phải hơn thua, ở đời có trước, có sau, có nhân, có quả. Suy cho đến cùng, nếu là một người chân chính, mong cho người khác hơn ta mới là điều ta hướng tới, đó mới là nhân cách chân chính. Nói như vậy không phải để buông xuôi, mà phải khéo léo đấu tranh cho sự nỗ lực của mình và người khác.
Thế nên, với những thứ học được trên đường đời, các con cứ âm thầm và quyết tâm thực hiện, vận dụng vào công việc của mình, kiên trì trau dồi những kỹ năng, biến nó thành kết quả hiện thực trong cuộc sống, cầu thị tiến bộ, vươn lên không ngừng. Đừng thể hiện với ai, đừng khoe khoang với ai, đừng đòi hỏi gì ai. Rồi đến lúc nào đó gặp được người thực sự hiểu biết và chân thành người ta sẽ nhìn thấy. Nhưng việc làm tốt phải biết đưa ra phục vụ công chúng, mặt hàng tốt phải được trở thành thương hiệu, các con phải biết quảng bá kết quả, nhưng đừng bao giờ quảng bá bản thân mình, kết quả mới chính là bản thân mình vậy. Con người suy cho đến cùng là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội thừa nhận, chỉ có xã hội đánh giá mới thể hiện ra giá trị của nhân cách làm người.
Nhưng nếu không thành công trong sự nghiệp, các con cũng đừng bao giờ buồn, đừng bao giờ trách đời hay trách ai để nhận lấy những bận lòng. Bởi điều quí nhất trên đời là nhân cách con người. Làm người tốt mới là điều vĩ đại nhất. Của cải, địa vị rồi cũng sẽ qua đi. Giá trị cuộc sống mới thực sự trường tồn. Con nên nhớ tốt phải đi đôi với công bằng và hiểu biết.
Có ai nói điểm xấu là tất yếu không tránh khỏi với mỗi con người, con đừng bao giờ dễ dãi nghe theo họ. Không bao giờ cho nó là điều tất yếu, nó chỉ là những khiếm khuyết không mong muốn của cuộc sống mà thôi, nó không phải cái mà mục đích con người hướng tới, nó trái với nhân văn thì nếu vấp phải cần phải kiên quyết dứt bỏ nó khỏi cuộc đời mình.
Con hãy chăm chút từ những việc gần gũi nhất, như yêu thương ông bà, bố mẹ, vợ con, làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp. Rèn luyện, giữ gìn sức khỏe. Rồi hết mình vì công việc có ích mà mình cần cho cuộc sống, đến những sở thích thú vị. Rồi đến gần gũi con người, động vật, thiên nhiên, môi trường. Những điều to tát hơn là dân tộc, đất nước và lý tưởng. Cuối cùng những thứ ấy mới là giá trị đích thực của một cuộc đời.

Bố rất mong các con vừa nhân văn, tốt bụng, vừa tài giỏi, vừa hiểu biết và hướng tới hạnh phúc và những điều cao đẹp.
   *
*    *
"Trên 50 năm qua, nhìn lại mới thấy rằng, trong cuộc sống của mình, bố học được rất nhiều thứ. Bố học ở cha mẹ, thầy cô, làng xóm, bạn bè, đồng đội, ở mẹ con, ở các con và trong cuộc sống hàng ngày, như nhân gian thường nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Có những điều bố học do để ý, có những điều vô tình và cả những điều vô thức, mà đã học được biết bao điều bổ ích. Liệt kê lại cũng thấy thật công phu.
1.Biết bơi, lặn từ năm 7 tuổi. Đến 10 tuổi bơi được bao xa tùy thích, lặn sâu hai cây sào (8m), lặn lâu được gần 2 phút.
2.Biết chèo thuyền nan, chống thuyền nan, chống bè mảng từ năm 7 tuổi.
3. Biết nấu cơm, chăn trâu, xay lúa, giã gạo từ năm 8 tuổi. Biết cưỡi trâu, phi trâu và qua sông trên mình trâu không ướt. Biết làm diều, thả diều, khoét sáo diều, đi kheo và các trò chơi dân gian.
4.Học giỏi các môn tự nhiên. Học sinh giỏi từ năm lớp 1 đến năm lớp 7 (Hết cấp hai). Đặc biệt vật lý, hình học và hóa học. Năm 1974 Danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ.
5.Biết cắt cỏ năm lên 9 tuổi.
6. Biết đánh dậm, đặt lờ, đơm đó, ngâm rọ, đánh nhậy, máng khăm, câu cá, câu con cà ra, bắt rắn, bắt cua từ năm lên 9 tuổi. Biết bẻ khuôn gói bánh chưng và gói bánh chưng rất đẹp (Giúp gói bánh cho cả xóm)
7.Biết gánh gồng, gặt lúa, bó rơm rạ, tát nước gầu dai từ 10 tuổi.
8. Biết nhổ mạ năm 12 tuổi.
9. Biết đào mai, cắt kéo, vác đất, bổ củi, cưa xẻ từ năm 14 tuổi.
10. Biết vạc bờ, cuốc góc năm 14 tuổi.
11. Biết đan các loại dụng cụ như rổ, rá, dần, sàng, sảo, giỏ, thời, hom, rọ.. kể cả thúng, mẹt, nong nia, biết đan bùi nhùi, lùn rơm, mũ rơm từ năm 8 tuổi.… Bu gà, sọt cỏ từ 15 tuổi, đến khi trưởng thành thì đan được hết. Biết chẻ tre, chẻ mây, chẻ lạt, buộc rui, mè, đòn tay mái nhà, buộc nhứng, trát vách đất nhà tranh. Biết đan tấm tranh lợp nhà.
12. Biết đóng gạch, xếp lò, đốt gạch.
13.Biết trồng chăm bón khoai, sắn, dưa lê.
14. Biết cày, bừa nhưng cày thì không giỏi.
15. Biết vẽ tranh ( Do học cuốn Tự học vẽ của Họa sĩ Tô Ngọc Vân), cắt chữ, chơi đàn ghi ta, thổi kèn Hacmonika. Một chút về bộ gõ. Biết nghe hát và hát quần chúng.
16.Biết tiêm thuốc cho người ốm (Bắp, ven)
17.Biết một chút về sửa chữa máy nổ Diezen. Đã sửa thành công năm 1991.
18.Biết tiếng Trung Quốc (Nghe, nói, viết, đọc); tiếng Anh (Viết, đọc, nói; nghe hơi kém); Biết tiếng campuchia (Chỉ nghe và nói, không viết, đọc được).
19.Biết mắc điện nước gia dụng.
20.Biết các phần mềm công nghệ thông tin (khá nhiều)
21.Biết làm cây cảnh.
22.Biết võ thuật đặc công năm 18 tuổi, môn “Thiếu lâm tự” từ năm 24, 25 tuổi (Học Võ sư Chín Chẩm ở Củ Chi, TP Hồ Chí Minh). Biết chơi bóng chuyền, tenis, bóng bàn, golf.
23. Biết lái ô tô từ 3/ 2006.
24.Biết một chút về viết văn, viết kịch, nghệ thuật sân khấu, đạo diễn. Biết viết báo, làm báo, làm một chút thơ.
25. Biết chụp ảnh, quay camera, dựng phim (Tốt). Biết đánh máy chữ tốc độ khá nhanh từ năm 1999.
26.Có nhiều ý tưởng sáng tạo và vận dụng vào thực tiễn (khá nhiều) ở lĩnh vực kỹ thuật, môi trường và xã hội.
27.Biết kiến thức về xã hội học, dân tộc học, tôn giáo, đối ngoại.
28.Cử nhân Chính trị học (Chuyên ngành triết học Mác- lê nin)
29.Có kiến thức về khoa học thường thức về máy bay, xe tăng, vũ khí, bom mìn, đạn dược.
30.Có kiến thức về bản đồ, địa hình, xác định điểm dứng, đi góc phương vị.
31. Bắn súng: Giỏi AK, Trung liên, khá súng ngắn, biết Đại liên, B41.
32. Có kiến thức về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, nghệ thuật quân sự; Giỏi cấp tỉnh.
33. Có kiến thức quản lý nhà nước và xã hội.
34. Biết làm công tác đảng, công tác chính trị. Biết giảng bài và kiến thức giáo dục học.
35. Biết quan sát đánh giá con người. Có một chút giác quan thứ 6, dự báo tương lai.
36. Biết một chút về phong thủy.
Thế đấy, bố biết chừng ấy thứ và đủ để trở thành một người bố bình thường của các con như ngày hôm nay, đều đó làm bố rất tự hào. Điều bố luôn cảm thấy hạnh phúc chính là có ông bà, che mẹ, có mẹ con,có các con, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp như ngày hôm nay. Bố chỉ mong các con trưởng thành và hạnh phúc như bố, tất nhiên cũng mong con hơn cha nữa chứ.

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

CÁI CỐI GẠO



           Nhà tôi cũng như mọi nhà trong xóm đều có một các cối xay lúa. Thầy tôi thường để ở chái nhà hướng đông.
Cối xay có thớt dưới, thớt trên, váy cối, chân cối, ngõng cối nằm ở thớt dưới, tai cối, cổ áo cối nằm ở thớt trên và  cái để xay là giàng xay có dây treo.
Lúc bà nội tôi còn khoẻ, bà vẫn thường hay ở nhà xay lúa, sàng xẩy. Sau này chị Tiến và anh em tôi cũng đều biết xay lúa cả. Tuy nhiên xay lúa cũng phải biết cách, xay vừa phải, đều tay thì hạt chín nhiều (hạt vỡ trấu) nếu vội mà xay nhanh, nhất là vớ phải cái cối lồng lên sồng sộc thì sống hết. Sống nhiều thì sàng xong, bốc ra phải xay lại, lúc đó gạo sẽ bị nát thành tấm. Lúc xay lúa một mình, bọn gà trống, gà mái hay vào xốc trộm thóc, đuổi chúng không chạy; thế là lại phải lấy một tàu chuối khô buộc vào một bên tai cối để đuổi lũ gà. Ngày bé tôi còn thấy bà tôi lấy cái áo tơi rách buộc vào đó mỗi khi bà xay lúa, đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chiếc áo tơi, vì sau này mọi người đều dùng nilon để khoác trời mưa nên áo tơi không còn tồn tại ở quê tôi nữa.
Cối xay lúa
          Tuổi thọ của cối xay phụ thuộc vào chất lượng cối và lượng xay nhiều hay ít. Có nghĩa là chất đất sét, dăm cối và tay nghề thợ đóng cối. Nhà nhiều người thì năng phải đóng lại hơn. Thường cứ một đến hai năm lại đóng lại một lần. Dăm cối thường do thợ đóng cối mang đến, thường là bằng gỗ nghiến, nhưng cũng có khi do gia đình đã chuẩn bị sẵn một ít gỗ nhãn, gỗ vải, thợ đến lại thêm một khâu chẻ dăm rồi mới vào việc được. Mỗi làng thường có một ông thợ đóng cối, nhưng hình như ở làng Dừa lại không có, vì tôi thấy thầy tôi hay mời ông thợ ở Thanh Kỳ hoặc ở Minh Đức sang đóng. Ngày ấy thợ đóng cối thường đến nửa buổi sớm, làm đến trưa ăn cơm qua quít với gia chủ, đến bữa tối thì cơm nước mới thịnh soạn hơn, có con gà, con cá, chai rượu gọi là làm vui. Thợ đi đóng cối cũng chỉ đi kiếm cơm vậy thôi, ngoài tiền dăm cối thì công sá cũng chẳng là bao, chỉ vài đồng bạc.
Tuy thế, nếu nhà có thợ đóng cối cũng vui ra phết. Chúng tôi thường xúm xít xung quanh ông thợ, xem thợ ra nan, vót tre, đan lồng cối. Nếu cối cũ quá thì phải đan tân khoa, việc này hơi lâu, tuy nhiên nếu được gia chủ đồng ý thì ông thợ đan sẵn ở nhà rồi mang đến đóng luôn. Nếu gia chủ không có nhiều tiền thì ông thợ phải chặt tre, ra nan, đan lồng tại gia chủ, tất nhiên tiền công đóng tân khoa sẽ nhiều hơn. Bọn trẻ chúng tôi thường tò mò xem ông thợ lôi ra từng thứ đồ nghề, trong đó có cưa, vồ to, vồ nhỏ, đòn quai bằng lim (Trông như cây thiết bản của Tôn Ngộ Không), nêm to, nêm nhỏ, mỏng dầy khác nhau, liềm vét đất, thích nhất là cái gọi là chân chó. Gọi là các chân chó vì nó giống hệt cái chân chó, ông thợ dùng để miết đất cho nhẵn và để đóng vào những chỗ ngóc ngách của cối mà vồ không thể làm được.
Sau khi đan hoặc dặm lồng cối, ông thợ xem ngõng cối còn dùng được không, nếu đã mòn quá thì thay cái ngõng mới, nếu không khi xay một là gẫy, hai là lồng. Ngõng thường làm bằng gỗ tốt để được lâu, những cái ngõng cối mòn, chỗ tiếp xúc thắt ngẫng lại rất nhẵn và đẹp, chúng tôi thường lấy để chơi.
Qui trình đóng cối nếu tả lại tỉ mỉ thì nhiều khâu lắm. Tóm lại là thế này: Đem đất sét khô ra đập nhỏ, rảy nước cho ẩm đều, cho vào lồng cối để nhồi nện cho chặt. Thớt dưới thì cấy ngõng cối, đặt chân ngõng phải thật chính xác vào chính giữa, đầu ngõng cũng phải cách đều xung quang nên phải đo đi, đo lại nhiều lần trong quá trình nhồi đất. Thớt trên thì phải đặt cổ áo cối và cũng phải làm tương tự như đặt ngõng cối. Khi lượng đất đã đủ và chặt, lật ngược thớt trên để đóng dăm, thớt dưới để nguyên và đóng dăm. Mỗi thớt đều có 8 múi dăm, cùng chạy hình lược theo ngược chiều kim đồng hồ, chính vì thế khi lật thớt trên ngược lại, các múi dăm lại chạy giao nhau, ta xay ngược chiều kim đồng hồ, các mặt dăm xiết vào nhau và kéo gạo và trấu từ trong ra ngoài. Đóng dăm xong, đến khâu nêm. Đầu tiên là dùng nêm mỏng, đóng nêm thật sâu cho chắc dần. Tiếp theo nêm vừa vừa. Cuối cùng là nêm dày nhất, lúc đó đất đã chắc lên đến tận mặt nêm. Quá trình nêm là quá trình người thợ thường xuyên ngắm để chỉnh mặt dăm cho thật phẳng và đều, chỗ nào còn nhô lên lại lấy vồ gõ vào đó cho tụt xuống một chút. Nếu đất chắc rồi, gõ không xuống nữa hoặc sợ long dăm thì ông thợ sẽ lấy dao sắc để gọt, chỉnh cho bằng. Xong khâu đóng dăm, ông thợ lấy cái chân chó đục đất ở thớt trên cho thủng xuống tận cổ áo cối, lấy cái liềm vét đất thành cái phễu thật dốc, đều và nhẵn, lấy chân chó nêm chặt những chỗ gấp khúc mà vồ và đòn không thể với tới. Đây là chỗ để đổ thóc vào xay. Sau đó ông thợ lại úp thớt trên xuống, đem thớt dưới úp ngược vào thớt trên, đoạn nện chặt thêm đáy thớt dưới, lấy liềm vét bằng cho đẹp rồi để chân cối lên đóng 4 cọc vào để giữ chân cối. Thế là công việc gần như hoàn tất. Bây giờ chỉ việc lật cối lên, xay thử xem sống chín, lồng êm thế nào, lấy nêm sửa lại một chút nữa, khi thóc xay chín thế là xong.
Nếu xay thử vẫn sống, (tức là còn nhiều thóc chưa vỡ) thì ông thợ lại bảo: Mấy hôm nữa nó mòn đều dăm rồi nó sẽ chín. Cũng có khi là đúng như thế, cũng có khi không phải thế vì ông thợ chỉ vụng chèo, khéo chống thôi.
Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước, đàn ông, trai tráng đều đi tham gia đánh Mỹ, ở lại hậu phương còn toàn là các cô, các thím, các chị. Có nhiều trai tráng, trong đó có những người chồng, người cha đã hi sinh ngoài mặt trận, các cô các thím ở nha bỗng dưng trở thành góa phụ, có người còn chưa có con cái rất cám cảnh.
Đóng cối cho mấy bà góa, mấy ông thợ đóng cối thường làm rầy rà nhất. Khi đến nhà cũng bày trò đến muộn để mong ngủ trọ lại một đêm. Lúc đóng cối xong còn cố ý để cối sống, cối lồng để mấy hôm sau quay lại sửa. Mục đích của mấy ông này là để trêu ghẹo, lạm dụng tình cảm của mấy bà góa phụ mà thôi, nên mới nghĩ ra chiêu trò ấy. Tuy nhiên không phải ai cũng cắn câu. Có bà ý tứ đem ông đóng cối sang gửi ngủ nhờ bên hàng xóm, nhà có đàn ông để đỡ mang tiếng, dư luận xì xầm. Ai cũng hiểu chiêu trò này của mấy ông thợ đóng cối tham tình, tham ngãi. Chính vì thế người ta hay trêu mấy bà góa: Thấy bảo hôm nay bên nhà bà có phó cối hử? Phấn khởi nhỉ. Thế là mấy bà lại cười ngặt nghẽo bảo: Báu lắm đấy.
Đóng cối nghe có vẻ rất khó, thế nhưng nếu nhanh ý và quan sát tỉ mỉ một chút cũng có thể làm được. Đến năm 16, 17 tuổi gì đó tôi đã tự mình đập cối nhà mình ra đóng. Do rất hiểu về độ cân bằng, độ nghiêng của dăm cối ở hai thớt cối, tôi đóng xong, dù là tác phẩm đầu tay nhưng không hề phải sửa một chút nào mà xay lúa vẫn rất chín. Tôi nhớ bên hàng xóm ai cũng trầm trồ, có chị Xuyến là chị dâu họ thì cứ xuýt xoa không ngớt: Sao lại không học ở đâu mà đóng đước cối mới tài chứ. Thực ra chúng tôi đã học từ những lần xem đóng cối từ nhỏ rồi, sau này có kiến thức thi việc đó cũng không khó gì cho lắm, có ai không học mà làm được đâu.
Nói cối xay lại phải nói thêm đến cối giã gạo. Cả xóm tôi hàng mấy chục nhà mà cũng chỉ có nhà tôi và nhà ông Bát có cối giã gạo. Tôi cũng không biết có từ bao giờ, nhưng tuổi thọ chắc đã rất lâu vì đát cối đã thủng một lỗ bằng miệng bát, đã phải tré bằng xi măng. Xóm trên có nhà ông Kham, ông Chử, xóm ngoài có Bà Tựa có cối. Cối giã gạo nó gần như một tài sản văn hoá cộng đồng vậy. Chẳng phải nhà nào có cối giã gạo người ta cũng đến giã đâu, phải là gia đình tử tế, sạch sẽ, ân cần, dễ tính.
Cối giã gạo
Cối giã gạo gồm có cần cối, chày, cối đá, tai cối, bệ đứng, tay vịn và chống cối. Chày thường được bịt thép và có đóng dăm bằng gang lưỡi cày gọi là mỏ cối. Cối đá thường được chôn dưới đất, miệng bằng mặt đất. Xung quang miệng cối phải đầm, láng thật nhẵn và sạch để quét gạo và cám trở lại khi giã nó bắn lên. Cần cối là một cây gỗ to, đẽo vuông, dài khoảng hơn 2 m, nặng, đầu to hơn đuôi. Cần cối nhà tôi làm bằng gỗ lim, cây gỗ này nghe đâu do bác Thiện (Bố anh Tranh) mò cái cột đình ở cầu đá mang về. Tai cối thường đục 1/3 phía đuôi cần. Bệ đứng thường liền với bệ đỡ tai cối, đặt và chốt cố định, chắc chắn trên mặt đất, cao hơn mặt đất chừng 10 đến 15 phân để đứng giã, ở trong lòng đào lỗ sâu để đuôi cần cối nhún xuống khi bẩy cần cối lên.
Cối nhà tôi đặt ở dưới bếp, thực ra trước đây là cối nhà bác Thiện, nhưng vì chái nhà bác mưa hắt nên bác đem qua bếp nhà tôi. Người đến giã gạo thường đem gạo xay đến, dù có người hay không có người ở nhà thì cũng nói to lên một câu: Tôi giã nhờ cả nhà cối gạo nhá. Nếu bà tôi ở nhà thế nào cũng nói: Vâng, ai đới? Họ lại bảo: Cháu đơi. Chỉ nghe tiếng bà đã có thể biết chính xác đấy là ai. Giã gạo là giã nhờ thực sự chứ không như thời bây giờ cái gì cũng dịch vụ nên không bao giờ nghĩ đến phải trả công sá gì. Thời điểm người ta đến giã gạo là lúc sau giờ nấu cơm chiều hoặc buổi tối sau khi ăn cơm tối, hoạ hoằn cũng có người đến giã vào ban sáng và ban trưa. Không có ai lại đem giã gạo vào lúc nấu cơm vì khói không giã được, với lại lúc đó nhà ai cũng bận nấu nướng, không có người giã gạo. Dịp gần tết là nhộn nhịp nhất, nhà nào cũng giã hai ba cối liền lúc vì nào là gạo ăn, nấu xôi lại còn gói bánh nữa.
Quanh cái cối giã gạo cũng nhiều chuyện hay ra phết. Mỗi khi giã gạo thường có 2 đến 3 người, hoặc là cùng giã, hoặc là thay nhau. Mỗi cối gạo giã khoảng một nghìn chày là được. Nếu là người lớn đến giã thì thường nói chuyện thời tiết, mùa màng, mạ mộng, kinh nghiệm trồng cấy hoặc thông tin chuyện trong làng ngoài xã. Thời chống Mỹ thì nói những chuyện nghe được trên đài truyền thanh hoặc nghe mấy bác cán bộ kháo nhau về ta thắng ở đâu, bắn rơi máy bay Mỹ bao nhiêu chiếc.
 Mùa đông giã gạo thì ấm chứ mùa hè nóng nực nhễ nhại mồ hôi chẳng ai thích. Nhà nào mà có mấy anh chị em rãu rãu cùng nhau giã thì thế nào cũng cãi nhau chõm choẹ. Thứ nhất là tranh nhau đứng trên cho nhẹ, không bị mỏi chân, chẳng đứa nào muốn đứng dưới cùng vì nặng và mỏi chân nhất. Nếu không phân giải được thì chia, đứa lớn thì đảm nhiệm hết thời gian và đứng sau, còn hai đứa bé mỗi đứa 500 chày, lại đến đận tranh nhau giã trước cho nhẹ vì lúc đó còn trấu, chày nó nẩy, về sau nó mút chày nặng hơn. Đã thế lại đếm ăn gian nóng mốt nóng hai, có khi mới 400 chày đứa trước đã bảo hết phần mình chạy ra, thế là lại chõm choẹ lần nữa. Đến cuối buổi có khi chỉ còn mỗi đứa lớn đảm nhiệm vì không bảo được hai em, hơn nữa cũng đỡ điếc tai. Trường hợp này hay xảy ra ở anh em nhà chị Thu, anh Đông, chị Xuân hoặc Anh Tuyên, Chị Mây và Hưng.
Cạnh nhà tôi có vợ chồng anh Chư, chị Xuyến sinh được toàn con gái, lúc tôi 16, 17 tuổi thì cũng chỉ mới có đứa lớn là đi giã gạo với bố mẹ được. Anh Chư là bộ đội phục viên, cũng rất hài hước. Khi bắt đầu giã gạo anh thường bảo với con gái: Cuộc hành quân thần tốc không di chuyển vị trí của bố con ta bắt đầu. Có hôm vừa giã gạo, anh vừa giảng giải cho con gái lớn cách dỗ em rất qui lát:
-Thế này nhé, khi bố mẹ vắng nhà, nếu trông em mà thấy em khóc thì có một trong ba nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất là đói, lập tức lấy cơm nguội cho em ăn, nghe chưa?
Thứ hai, nếu vẫn khóc thì có thể nóng quá hoặc lạnh quá: Nóng thì quạt, lạnh thì ủ ấm thêm;
Thứ ba, nếu vẫn tiếp tục khóc thì đích thị là ốm, lập tức bế em sang hàng xóm nhờ xem hộ ngay.
Nhớ chưa?
Đứa con thì vâng ạ còn chị Xuyến thì cứ cười ngặt cười nghẽo nghẽo vì cách nói hài hước quân sự của chồng.
Giã gạo mà nên thơ nhất là có đôi nào thích nhau, tối mùa đông mà theo nhau đi giã gạo thì cứ gọi là yên thít, chỉ thấy tiềng chày lúc khoan, lúc nhặt lẫn với tiếng trêu ghẹo nhau khúc khích thôi. Nếu gặp cô nào xinh thì thế nào cũng có vài anh đi theo tranh nhau giã cùng.
Chính vì những lý do này mà tôi nói, cái cối giã gạo giống như một tài sản văn hoá cộng đồng vậy.
Đến những năm 1991, 1992 gì đó thì nhà tôi và nhà chú Ân có mua chung một cái máy xát gạo, xát thuê cho hàng xóm. Lúc đó chưa có điện, máy xát phải chạy bằng một cái máy diezen 15 mã lực, inh cả tai. Máy do Tú con chú Ân, và Trường em trai tôi vận hành. Lúc đó tôi học ở Học viện Chính trị, những ngày nghỉ hè thỉnh thoảng cũng đứng máy thay cho các em. Có một lần máy chạy long lên sòng sọc, rung bần bật không thể nào xát được gạo, nếu tiếp tục chạy nó sẽ phá tan cả máy nổ và máy xát. Không ai biết nguyên nhân tại sao. Tôi lấy sơ đồ tổng thành của máy ra đọc, thuyết minh toàn bằng chữ Trung Quốc, nhưng tôi bập bõng đọc được. Cộng với kiến thức về máy của xe tăng đã học trước đó, tôi đưa ra nhận định:
-Có thể máy bị gãy trục của quả đối trọng.
Tú lúc đó mới bảo:
-À đúng rồi anh ạ, nó là quả văng anh ạ (Tú cũng đi thuyền và cũng biết về máy nổ nên gọi nó là quả văng)
Thế là tôi và Tú tháo máy ra kiểm tra, đúng như dự đoán, máy bị gãy trục quả đối trọng -“Quả văng”.  Tôi bảo Tú lên huyện mua quả đối trọng về để thay, tôi và Tú hì hục tháo ra thay quả mới vào. Có rất nhiều các điểm dấu trên các bánh xe, trục cam cần ghi nhớ, nếu lắp sai máy sẽ không nổ, điều ấy tôi đã để ý và học được trong lần tháo máy này. Khi lắp xong, máy lại chạy êm ru. Đấy là lần đầu tôi sửa máy Diezen và đã thành công. Sau này có điện, máy xát chạy bằng moter điện, tiện lợi hơn nhiều. Nhưng cũng từ đây, cái cối xay lúa và cái cối giã gạo mỗi ngày một vắng bóng đi rồi mất hẳn. Nhưng trong lòng vẫn nhớ như in hình ảnh của nó.