Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

TUỔI THƠ TRÊN LƯNG TRÂU


      Từ xa xưa đến nay người làng tôi vẫn là canh nông vi bản, có nghĩa là cấy trồng hạt lúa, củ khoai vẫn là nguồn thu nhập chính. Từ khi còn bé tôi đã nghe một câu mà thầy tôi thường nói: Con trâu là đầu cơ nghiệp con ạ. Tuy nhiên tôi chẳng hiểu gì về hai chữ cơ nghiệp.
        Năm lên tám tuổi, lúc đó tôi mới học lớp một tôi đã biết đi chăn trâu. Đầu tiên là chị Tiến dạy tôi dắt trâu. Chị bảo, trâu nó hay bắt nạt trẻ con lắm, không quen là nó húc ngay, tôi cũng sợ. Chị giật dưới bờ ruộng (Nay là chỗ cổng nhà ông Trúc, gần cây đa ông Bơn) một nắm cỏ gà non, đưa cho tôi cầm và đưa vào tận mũi con trâu, nó ngửi ngửi rồi ăn ngon lành, chị bảo thế là nó quen hơi em rồi đấy. Từ đấy thỉnh thoảng tôi lại dắt trâu đi chăn thay chị.
Nhà tôi được hợp tác xã giao đảm nhiệm nuôi một con trâu cái. Nuôi một con trâu được tính điểm bằng một công (Gọi là công trâu). Trâu nhà tôi sừng cong đều tròn như cái mâm, hơi cúp một chút. Nhìn con trâu cũng biết là nó hiền. Nó hiền từ ánh mắt cho tới nết ăn, nết uống, đến cách đánh ruồi. Động tác nào cũng rất chậm rãi. Đôi lúc tôi cứ thấy nó hiền như chị Tiến nhà tôi. Người ta bảo, trâu nhà ai nuôi lâu ngày nó cũng giống người nhà ấy, kể cả về dáng vẻ và tính cách.
        Con trâu nhà tôi chỉ cần nhìn cách hàng cây số cũng phát hiện ra đặc điểm của nó. Hình dáng to, bụng bè bè, nhất là lúc nó có bầu. Bụng to thế nhưng lưng lại bổng, có phần hơi cong lên chứ không võng xuống. Chính vì hình dáng thế nên khi bơi qua sông nó rất nổi, khi chúng tôi sang sông chỉ việc xắn quần, đứng trên lưng trâu là không bao giờ ướt. Tôi cũng là một tay cự phách về “tài” đứng trên mình trâu sang sông. Tuy nhiên vẫn còn thua xa so với Tải, Nhị, Cửu. 
        Ngày ấy, bạn chăn trâu với tôi rất đông, có Tải, Nhị, Cửu, Hưng (Con ông Chử), Hưng (Con ông Ý), Duyển, Mão, Trình (Con bác Tạn), anh Trọng... Nếu là trâu chơi, buổi sáng ra đồng chúng tôi đều hẹn nhau cùng đi. Ra đến đầu làng là cả bọn bắt đầu phi trâu, cả đàn trâu phi rầm rầm từ đầu làng ra tận ngoài đê dài cả cây số. Người lớn vác cuốc cày ra đồng cứ phải né vào bên cạnh, các bà các chị thế nào cũng chửi: Mấy thằng thổ tả kia. Có bác khi gặp bố mẹ lũ trẻ trâu thường hay bảo: Tôi thấy cái thằng nhà ông bà cứ ra đồng là nó đánh trâu lồng, bảo nó đi không thì có ngày bó bột (ý nói là gẫy tay, gẫy chân). Bọn trẻ gọi là phi trâu thì người lớn lại gọi là trâu lồng. Trâu nhà tôi là trâu cái nên khi phi trên bộ thì nó bao giờ cũng chậm nhất trong đàn nên cũng chẳng lo về việc ấy. Vả lại có ngã là ngã mấy thằng tò te cưỡi phải trâu mới lớn thôi, chứ trâu trưởng thành thì không ngã được vì nó chạy rất êm, không tắt ngang, tắt ngửa. Cả đàn trâu chạy như thế, có thằng nào ngã xuống đất cũng không bao giờ trâu giẫm lên người, nó tránh được hết như kiểu tránh các mô đất vậy.
Cả nhà tôi ai cũng chăm trâu và yêu quí trâu. Mẹ tôi, chị Tiến đi cắt cỏ, bao giờ cũng chọn cỏ ngon cắt đẫy gánh. Mùa nhiều cỏ không sao, mùa thu, mùa đông hiếm cỏ, mẹ tôi hoặc chị Tiến phải sang tận đồng Gang, bãi Tú, bãi Vực xa hàng bảy đến mười cây số cắt cỏ. Có khi còn phải đẽo cả gốc cỏ gừng cho trâu. Có lúc chúng tôi vừa thả trâu lại vừa phải cắt cỏ cho vào bao để đem lên mình trâu đưa về nhà phụ giúp với mẹ và chị. Con trâu nhà tôi bao giờ cũng béo nhất làng, cứ hai năm nó lại đẻ một con nghé. Mỗi lần hợp tác xã mở hội thi trâu, thể nào trâu nhà tôi cũng đoạt giải. Tôi nhớ một giải chỉ được tặng một cái nón và con trâu được buộc một bông hồng vải đỏ vào sừng. Tôi chẳng để ý gì đến cái nón, tôi chỉ thích bông hồng vải.
       Chăn trâu có nghé là rất vất vả, lúc nhỏ thì vừa đi nó vừa rúc vú mẹ để bú nên đi rất chậm, hay bỏ xa đàn. Khi nó đã được bảy tám tháng thì hay nhảy xuống ruộng ăn lúa. Để hạn chế nó, thầy tôi lại phải đan một cái rọ mõm để đeo vào cho nó, đến bãi thả lại phải tháo ra cho nó ăn cỏ và bú mẹ. Khoảng gần một năm, đến lúc sắp giao nghé cho hợp tác xã, Thầy tôi phải xiên mũi cho nghé để có lỗ mũi buộc sẹo. Thầy tôi làm róng gông con nghé lại, rửa sạch mũi nó bằng nước muối và dầu tây, lấy một cái dùi nức rổ nung qua lửa xiên qua chỗ mỏng nhất giữa hai lỗ mũi con nghé. Thầy tôi bảo như thế nó không bị đau lắm và sát trùng. Sau khi xiên, lấy một đoạn cây mây để tròn, cắt ngắn, đập dập hai đầu, thắt nút một đầu trước sau đó xuyên qua lỗ đã dùi. Đầu còn lại thắt một nút nữa cho thật sát ngắn, sau đó cắt chỗ thừa đi. Lấy nước tỏi và muối xát vào chỗ vết thương. Con nghé bị đau bỏ bú mất vài ngày, thế nhưng chỗ bị xiên nó liền cũng rất nhanh. Thầy tôi bảo, không phải ai cũng xỏ được mũi nghé, cũng có người vụng, sau khi xỏ nhiễm trùng rất lâu khỏi, lớn lên con trâu bị sứt mũi và điều khiển nó rất dai mũi và ít tuân lệnh chủ. Vậy nên mới có câu “Ương như nghé sứt” là vì thế.
Khi vết thương ở mũi con nghé lành hẳn cũng là lúc phải làm sẹo, xỏ thừng vào dắt cho quen dần. Đầu tiên xỏ thừng vào rồi mai thừng lên sừng nghé, sừng nó ngắn, bị ruồi bâu đốt là nó hay đánh mốc (tức là tìm mô đất húc sừng vào đánh tung hoăng lên) do vậy rất hay tuột thừng ra, rất hay phải mai lại. Nếu không mai lại là nó lại dẫm vào thừng, vì đầu cái dây thừng có mấu, dắt vào khe chân nó không tuột ra được, mỗi lần bước là một lần mũi nó lại bị kéo dật về sau không bước đi được.
         Khi con nghé đã được hơn một năm tuổi là nó phải tập cày, tập bừa. Tập cày cho nghé thì gọi là vực nghé. Khi vực nghé thường chọn một ruộng mạ vừa nhổ, đất rắn vừa phải, chỉ cho kéo bằng cái bắp cày, sau đó mới vực bằng cày thật. Khi vực bằng cày phải chỉnh cày ăn thật nông rồi vực nghé. Lần đầu phải có hai người, một người dắt đằng trước, một người cầm cày đằng sau, sau vài buổi quen mới vực một người. Người vực nghé thường phải biết nghề, vừa đi vừa xướng lên những câu ca vực nghé:
     Ơ…hơ… hơ
     Còn nhỏ làm nghé, lớn lên làm trâu
     Bé ăn chơi, lớn phải đi cày
     Nghé ngoan ơi nhớ lấy câu này
     Mắt nhìn thẳng về phía trước, 
Hai chân trước bước lên trước
Hai chân sau bước tiếp theo sau,
Vai gắng lên mà kéo cày đi nào.
     Ơ…hơ… hơ
Nghe tiếng vắt thì bước chân vào
Thấy kéo mũi thì bước chân ra ….
Bước đi cho đều, sá cày mới thẳng… nghe con.
Đi cho chắc sá này, mai ngày tốt lúa.
Ta lấy hạt thóc, mày ăn bó rơm thơm.
      Ơ…hơ… hơ
Khi đến đầu bờ, móng chân bấm chặt vào bờ
Ta nhấc cày lên, nghe tiếng vắt thì quay đầu lại
Vắt vào, quay đầu lại đi nào.
Nghe tiếng roi quất thì bước chân đi.
Cày nhanh sá thì nghỉ sớm, đi chậm thì nghỉ muộn con à.
      Ơ…hơ… hơ
     Cứ như thế, người vực nghé hát vang cả cánh đồng trong cảnh yên bình. Người vực nghé giỏi cũng là người cày giỏi và có kinh nghiệm, tay cầm roi nhưng không bao giờ đánh trâu mà nó vẫn đi. Hình như con nghé cũng hiểu tiếng người và ưa dỗ ngọt. Chúng tôi rất thích xem vực nghé là vì vậy. Xem mãi không biết chán. 
Đội nhà tôi là đội bốn, ở đội năm hay đội sáu gì đó Thuộc làng Dáu (Thôn Đồng Lộc), do chăn trâu không tốt nên cứ chết rét dần. Để duy trì số lượng trâu và đảm bảo sức kéo, hợp tác xã lại có chủ trương đổi trâu béo lấy trâu gầy. Chú thím Hoàn có họ hàng với nhà tôi chăn trâu vụng để gầy giơ xương, lúc nào cũng đói dính (Tức là như thể da bụng bên này dính sang da bụng bên kia được bọn trẻ trâu chúng tôi gọi là đói dính), thường xuyên bị phạt điểm. Thế là hợp tác đổi trâu nhà tôi cho nhà chú Hoàn, lấy con trâu gầy nhà chú giao cho nhà tôi. Lần ấy tôi buồn vô cùng và không bằng lòng với điều bất công ấy. Thế nhưng Bu tôi bảo: Thôi con ạ, trâu gầy yếu về nhà mình chăm lại béo con ạ. Chắc do nể họ hàng nên thầy bu tôi cũng không nỡ thắc mắc gì. Tuy thế những ngày mới đổi, cưỡi lên mình con trâu gầy giơ xương ngồi rất đau mông. Do nhớ con trâu cũ nên cứ ra đồng là tôi lại tìm xem con trâu cũ nhà tôi ở cánh đồng nào. Nếu không nhìn thấy cũng bâng khuâng. Chăn trâu lâu ngày, người và trâu cũng có tình cảm, con trâu cũng nhớ chủ cũ. Nếu ở gần mà nhìn thấy chủ cũ, con trâu cũng ngẩng lên kêu “ò.. ọ” và chạy đến hít hít vào người, vào tay. 
Chả thế mà có lần hợp tác xã thịt con trâu đực nhà bác Đọc, anh Bính lúc đó trạc tuổi với tôi, thấy trâu nhà mình bị quật ngã, kêu rống lên và bị chọc tiết, anh ấy ngồi trên tường bao nhìn xuống đã khóc rất to vì thương trâu, cứ thế anh ấy quệt nước mắt đi về. Quả thực, nghe con trâu nó kêu khi bị kéo đổ, mắt nó cầu cứu, nước mắt giàn ra, thương tâm lắm. Thịt trâu xong thường thì chủ trâu được lấy đôi sừng, nhưng thường cũng chẳng ai lấy. Anh Bính cũng vậy, anh ấy dỗi vì thịt mất trâu nhà anh ấy. Thế là bọn trẻ trâu chúng tôi lại xin, đem về ngâm cho tụt hết lõi đi để làm tù và.
Chăn trâu cái nó hiền, lúc nó không nuôi con thì có phần nhàn hơn chăn trâu đực. Cạnh nhà tôi là nhà Duyển, bạn thân với tôi. Nhà Duyển chăn một con trâu đực mộng, ngày ấy những con trâu đực tốt thường hợp tác để làm giống; còn những con không có dáng dấp hoặc dữ quá thì đều thiến đi cho nó thuần. Con trâu nhà Duyển dáng đúng là lực sĩ, ngực to, chân chắc, cổ vại u lên, sừng củ ấu. Ngửi thấy mùi trâu đực ở đâu là nó giật mũi đi tìm đánh nhau. Trong làng có mấy con trâu đực mộng, hễ cứ gặp nhau là đánh, đó là trâu nhà Duyển, trâu ông Đào, trâu bác Quát, trâu bác Đọc, trâu ông Phận. Những con trâu ngang sức nhau, dù đánh nhau đã thua rồi nhưng lần sau gặp chúng lại đánh, chứ không giống như các loài vật khác, đã thua một lần là lần sau gặp lại, con đã thua rồi là tự bỏ đi. Có lần con trâu nhà Duyển với con trâu bác Quát đánh nhau cả buổi chiều, đánh từ trên bờ, xuống giếng chùa, ra ruộng lúa, nhảy xuống ngòi. Trâu đánh nhau mà cá còn không chịu được phải ngoi lên. Cứ mỗi lần như thế chúng tôi đứng xem mà thích thú, chỉ có người lớn là xót xa vì ruộng lúa bị phá tan tành. 
Tuy trâu đực hung hăng thế nhưng con trâu nhà Duyển với người nó lại rất hiền. Khi nó nằm nghỉ mát dưới gốc tre, mồm nhai lại, mắt lim dim, chúng tôi cứ ngồi lên lưng nó lấy mảnh sành cạo, vót sừng cho nó thật nhọn để nó đánh nhau. Con trâu có vẻ khoái điều này nên nó cứ để yên cho chúng tôi cạo sừng.
Tôi nửa ngày đi học, nửa ngày hoặc đánh dậm, nấu cơm, cắt cỏ hoặc chăn trâu. Đấy là tuỳ thuộc vào từng mùa. Nếu mùa trâu chơi thì một buổi chăn trâu. Nếu là buổi sáng thì sáng sớm đã cưỡi trâu đi, khoảng gần trưa thì về ăn cơm rồi đi học. Vì là trâu chơi nên buộc cho nó nghỉ đến 4 giờ chiều mới cần có người phải dắt nó đi ăn đến gần tối tối. Nếu sáng đi học thì chiều đi chăn. Buổi trưa bọn trẻ trâu chúng tôi quẩy dậm ra đồng, đánh một hai tiếng đã lưng giỏ cá tôm lẫn cua. Về nhà để bà làm rồi chiều dắt trâu đi chăn.
Trên lưng trâu vắt vẻo, nếu có bất kỳ cuốn truyện hay cuốn sách nào đều đọc cho ngấu nghiến, không sót một chữ nào. Có những cuốn truyện hay đọc đi đọc lại cho đến thuộc. Tôi nhớ nhất những cuốn: Kho tàng truyện cổ tích Việt nam của Nguyễn Đổng Chi, đọc hết cả khảo dị; “Dưới đám mây màu cánh vạc” của Thu Bồn mượn của chị Hút; “Con đường dẫn tới các vì sao” mượn của anh Bình nhà tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in từng nhà khoa học; “Tiếng gọi nơi hoang giã” nhân cách hóa về một con chó có tên là Bấc. Chuyện ngắn chọn lọc nước ngoài của nhiều tác giả nổi tiếng, có những câu chuyện như “Chiếc lá cuối cùng”, “Đấu bò tót”, “Khúc thịt bò” …Rồi sau này đọc tác phẩm “X30 phá lưới”, “Vật lý vui”, “Đội thiếu niên Bát sắt” … Nếu không có truyện đọc, chúng tôi lại tình nguyện trông trâu, đuổi trâu cho Ông Nguyện để ông kể chuyện Thạch Sanh, chuyện Tiết Đinh Quý, Tiết Đinh Sơn cho nghe. Cứ thế chả mấy chốc đã hết buổi. Chính những câu chuyện này đã dần cho chúng tôi lối sống, vốn sống và kiến thức sau này.
Nếu không phải mùa thì bọn trẻ chúng tôi thả trâu rồi đuổi bắt nhau dưới sông cả buổi. Tất cả bọn chúng tôi đều giỏi bơi lặn, hơn kém nhau không đáng là bao. Trong lũ trẻ trâu, bơi giỏi nhất là Tải; Hưng (Mát) và tôi ngang nhau, đến Nhị, Cửu, Duyển, Hưng (Hằng), Mão, Trình (Con bác Tạn) và Hưng (Con ông ý) xếp hạng sau cùng. 
Hàng ngày chúng tôi chơi đuổi bắt dưới sông, luật chơi là rút thăm, ai được cây cỏ ngắn nhất thì phải đuổi, số còn lại bơi lặn trốn. Người đuổi phục trên bờ phóng xuống, vỗ vào được ai thì người ấy lại đổi sang vai đuổi bắt. Có đứa khôn giả vờ nhao xuống cho đối phương lặn, thế rồi đứng chờ trên bờ, khi thấy đứa kia hết hơi ngoi lên, chưa kịp nhìn thì bị nhao trúng người. Có lúc tôi lặn rồi chui vào trong hườm bờ sông, bên ngoài cỏ che kín làm cho người đuổi còn tưởng mình lặn lâu, thậm chí còn tưởng tôi bị chết đuối. Về sau, ai cũng bơi giỏi không bắt được thì đổi sang luật lấy đất bùn ném, trúng người nào người ấy phải đuổi. Cứ như thế có hôm lặn ngụp ba bốn tiếng dưới sông.
Có những đoạn sông sâu hàng mấy cây sào, chúng tôi thi tìm mò những vật mà ném từ trên xuống, ai lấy được lên là thắng. Đầu tiên ném nửa hòn gạch, dần dà chỉ ném hòn gạch bằng quả ổi rồi lặn xuống mò lên. Thế mà không sót hòn nào. Tôi, Tải, Hưng (Mát) là những thằng bạo gan, thường hay thắng nhất. Hết những khúc sông bình thường thì chuyển sang những khúc sông sâu hơn, hoặc vụng xoáy. Kể cả ngã ba sông mà nhiều người lớn đồn là có ma mấy thằng bạo gan chúng tôi cũng không sợ. Một số đứa khi nghe chúng tôi dọa: “Trâm đấy” là chúng không dám lặn xuống tận đáy. Chả là ở khúc sông sâu ấy có chị Trâm và cu Từ nhà ông Tư bị chết đuối. Chị Trâm cũng chỉ vừa mười sáu, mười bảy rất đẹp người; cu Từ còn ít tuổi hơn chúng tôi, thương lắm nhưng vẫn đem ra dọa nhau. Chúng tôi còn lấy bùn trát lên thân đê rồi thi nhau trượt từ mặt đê xuống nước cả mấy chục mét. Nếu nước cạn trơ lòng sông thì chúng tôi nằm ngửa trên váng phù sa mát rượi, dùng hai chân đẩy cho người trượt đi giữa lòng sông một cách thích thú. Mùa hè thì lặn xuống tận đáy sông rồi nằm trên nền phù sa mát rượi. Lúc đó do ngày nào cũng lặn ngụp, chúng tôi có thể nín thở được vài phút dưới đáy sông.
Trẻ trâu thì ở đâu cũng nổi tiếng nghịch ngợm. Sau này nghĩ lại thấy không hình dung nổi mình lại làm được những việc như thế. Cống ông Toà và cống ông Chử là nơi để chúng tôi trèo lên phóng tên lửa hoặc khoanh chân làm cối 81 từ trên cao xuống mặt nước, cột nước càng cao càng thích. Có thằng lặn xuống, vừa nhô lên há miệng thở bị một quả “cối 81” ở gần, nước ộc vào miệng ho sặc sụa, vậy nhưng đó là chuyện thường chẳng bao giờ giận nhau. Có những đứa mệt định lên bờ nghỉ sớm mà thằng dưới nước vẫn còn muốn chơi, liền lấy đất bùn ném vào người cho không mặc được quần áo, thế là lại phải chơi tiếp.
Có những hôm mở cống, nước to, chảy rất xiết, chúng tôi còn chơi trò nhảy xuống bên này cống, lặn xuống cho trôi ra bên kia cống quãng đường mấy chục mét thân đê. Có khi sạt người vào thành bê tông xước hết người. Đấy là trò mạo hiểm nhất, sau này nghĩ lại thấy mà sợ. Nếu chỉ cần có một cành rào ở giữa cống mà vướng vào thì kể như cuộc đời kết thúc.
Có những hôm nước rất trong (Quê tôi vùng nước lợ mà), chúng tôi lặn xuống cống, mở mắt tìm mò những con cá bò, cá bống trong kẽ đá ở chân cống. Có lần bị cá bò đánh rách cả tay, mở mắt dưới nước nhiều, lúc lên bờ mắt đứa nào đứa nấy đỏ hoe, nhìn cảnh vật xung quanh đều có màu rất vàng. Thế mà không hề hấn gì, lại còn cảm thấy thích thú với cái màu vàng của cảnh vật xung quanh. 
Vào mùa đông rét mướt, không tắm sông được, chúng tôi nặn mỗi thằng một cái lò đất, chỉ to bằng bàn tay người lớn, đốt củi lấy than hồng sau đó lấy quả phi lao khô cho vào rồi thổi hồng lên và cầm trên tay cho ấm. Có lúc không có quả phi lao khô thì lấy phân trâu khô cũng đốt được. Làm lò đẹp nhất là Cửu, Nhị và Duy. Tôi và Tải thì làm lò to hơn cả, cốt ấm và không nóng tay. Tôi còn nhớ, có lúc Nhị và Cửu thổi lò mạnh quá, quả thông cháy đỏ nóng rực bay ra khỏi lò rơi lên mình trâu, con trâu bị bất ngờ nhảy dựng lên làm người cưỡi ngã văng xuống đất. Thấy bạn không sao, cả bọn lại cười như pháo rang thích thú.
Có hôm không có trò gì, bọn trẻ chúng tôi chia thành hai nhóm, xếp đất ải giả làm thành quách rồi ném nhau. Tất nhiên là nguy hiểm rồi nhưng không thú vị thì chơi làm gì. Có nhiều hôm còn ném nhau với lũ trẻ chăn trâu Thanh Kỳ (Làng bên kia sông). Các anh lớn tuổi thì phục kích, bọn trẻ nhỏ chúng tôi làm mồi nhử đứng bên này khiêu khích sang bên kia sông. Lũ trẻ trâu Thanh Kỳ bực tức cậy đông nhảy ào xuống sông bơi qua đánh, chúng tôi giả chạy. Khi chúng nó gần đến bờ bên này, các anh lớn nằm dưới cói đứng lên ném đất đá vào đội hình bọn trẻ Thanh Kỳ, lúc đó chúng tôi quay lại hỗ trợ. Bọn trẻ Thanh Kỳ thua chạy, mấy ngày sau đó cũng dùng chiêu nghi binh nhưng không lần nào lừa được chúng tôi. Đánh đấm nhiều lần thế nhưng rất may cả hai bên ít khi nào có thương tích nặng xảy ra. Sau này khi con đê đắp liền lại để phục vụ Trạm bơm Cầu Dừa thì trẻ hai làng không đánh nhau nữa mà còn chơi với nhau.
Chăn trâu vất vả nhưng cũng có cái thú của chăn trâu. trẻ trâu có rất nhiều trò chơi mà những đứa trẻ khác không bao giờ biết được. 
Đánh khăng là trò chơi thú vị của lũ trẻ trâu. Khăng có thể làm từ nhiều loại gỗ, tre khác nhau, nó bao gồm hai khúc, khúc dài gọi là mẹ, khúc ngắn gọi là con. Những đứa trẻ trâu còn nhỏ có thể làm bằng cây điền thanh to, loại này nhẹ, nhất là lúc khô đi. Khăng bằng cây điền thanh thì dễ đánh, vả lại nếu có văng vào đầu cũng không đau. Trẻ trâu lâu năm thường làm khăng bằng loại tre già, bằng gỗ xoan hoặc gỗ đa già đảm bảo nặng và rắn chắc.
Luật chơi khá đơn giản, một đám trẻ chia thành hai nhóm đều nhau về trình độ chơi. Cũng có thể có đội nhiều hơn nếu bên ít đồng ý chấp. Có hai người cũng có thể chơi được. Hai bên thống nhất chơi bộ khăng của một đứa trong nhóm. Bộ khăng nào có con con càng ngắn thì càng khó chơi vì vụt khó trúng. Thế nên cần phải thống nhất từ trước, không ép được, nếu ép một bên sẽ bỏ chơi, thế là mất vui.
Chơi khăng có ba bước: Lồ, mắm và gà. Bên nào đo được nhiều con thì bên ấy thắng. Tính bằng cách mắm ăn mẹ (Đo bằng con mẹ), gà ăn con (Đo bằng con con) Phần thưởng có thể là cõng, nhổ tóc hoặc giết rôm.
Đầu tiên phải đào lồ, cái lồ là một cái lỗ ở chỗ đất cứng dùng để lồ và gà. Đào lồ xong sau đó cắm hướng để đánh khăng, vẽ một đường kẻ ngang ở phía trước gọi là mấc (Chắc đồng nghĩa với từ mức), mấc xa hay gần cũng phải thống nhất, làm xong thì chơi.
Để chọn bên chơi trước phải thi khấc. Khấc là lấy con khăng mẹ tâng con khăng con, khi nào con khăng con rơi xuống đất thì thôi. Có thể chọn ra hai đứa khấc giỏi nhất để thi với nhau, cũng có khi cả đội cùng khấc rồi cộng lại, bên nào khấc được nhiều hơn thì được chơi trước. Bên chơi trước sẽ đánh khăng, bên kia đón.
Đầu tiên là lồ. Đặt con khăng vào ngang miệng lồ, sau đó lấy con mẹ chọc xuống miệng lồ hất con khăng đi phải qua mấc, tất nhiên càng xa càng tốt. Nếu bên lồ mà lồ sai hướng đã cắm hoặc lồ không qua mấc là phạm qui, đứa ấy mất lượt phải ra cho đứa khác trong đội vào chơi. Nếu lồ đúng hướng mà bên đón không bắt được thì coi như qua bước lồ, bước vào mắm. Nếu bên đón bắt được con khăng lồ thì lúc đó bên lồ phải để gác mẹ khăng lên trên miệng lồ bằng hai hòn gạch hoặc hai hòn đất nhỏ. Bên đón sẽ đứng ở mấc nhằm mẹ con khăng và ném. Nếu trúng rơi mẹ con khăng xuống đất thì đứa lồ đó phải ra để đứa khác trong đội vào chơi. Còn nều ném không trúng thì chuyển sang bước mắm. Tuy nhiên việc bắt con khăng cũng phải kỳ là bắt bằng tay chứ không được “ôm em”- Có nghĩa là không tính ôm con khăng rơi vào ngực hoặc vào bụng.
Mắm: Tay thuận cầm mẹ khăng, ngón cái và ngón trỏ cầm con khăng, tung con khăng lên sau đó lấy mẹ khăng vụt mạnh để con khăng đi càng xa càng tốt. Nếu bên đón mà bắt được thì bên đón được đo và tính từ chỗ bắt được đến tận lồ. Đơn vị tính bằng độ dài của con mẹ. Thế mới gọi là mắm ăn mẹ. Đứa bị bắt lại phải ra cho đứa kế tiếp đánh. Ngược lại, nếu không bắt được thì bên mắm được đo và tính cho mình rồi chuyển sang gà. Nhưng nếu kỳ nhau mà ba mắm thì mắm hết ba lần mới thôi. Cơ hội chia đều cho hai bên. Có đứa không biết mắm bằng một tay, khi tung con khăng lên vụt không trúng thì mắm bằng hai tay, mắm kiểu này thì đi rất gần và dễ bị bắt. Còn mắm hụt thì coi như hỏng.
Gà: Đặt con khăng vào lồ, gếch một đầu lên, nếu được phép có thể đặt ra gần đâu đó cạnh lồ cúng được. Lấy mẹ khăng đập vào đầu con khăng cho bật lên cao và vụt mạnh cho con khăng bay đi, nếu vụt trúng mà bên đón không bắt được thì bên đánh được dùng con khăng đo từ chỗ rơi về đến lồ. Gọi là gà ăn con. Và tiếp tục gà tiếp. Nếu bên đón bắt được thì bên đón được đo, bên gà mất lượt. Nếu vụt không trúng (hụt) thì cũng phải ra. Nhiều đứa đánh mạnh, con khăng làm bằng tre rất hay bị vỡ, vì vậy nhiều khi phải đẽo bằng gỗ mới chịu được. Đánh khăng, gà là khó nhất, rất hay gà hụt.
Lúc đo rất hay xảy ra cãi cọ vì nếu bên được điểm đo thì hay đo láu, ngoáy con khăng sang hai bên để tăng điểm, nếu bên bị dành lấy đo lại hay bỏ quãng, cho nên thế nào cũng ì xèo. ấy thế rồi cũng chấp nhận được, nhưng đôi khi cũng phải đo lại. 
Lần lượt hết đội này sẽ tiếp đến đội kia chơi. Khi hai đội chơi hết lượt, tổng kết bên nào nhiều điểm là thắng, bên thua phải cõng, mấy vòng là do kỳ với nhau từ trước, tính theo trăm điểm. Cứ như thế chơi mãi không biết chán.
Ngoài những trò chơi ở trên, trẻ trâu còn có những trò như đánh bi, đánh gụ, đánh đáo, thả diều. Mải chơi mà cho trâu về muộn hoặc quên việc, có đứa về nhà bị bố đánh lằn mông lên, gọi là bị ăn lươn.
Có một trò chơi có thể nói bác học nhất của trẻ chăn trâu chúng tôi, đó là thả diều. 
Nói đến chuyện thả Diều của trẻ trâu có thể nói cả ngày không biết chán. Tôi nhớ như in một câu chuyện ở Làng Dáu mà tôi được nghe kể lại thế này (Hình như chú Hoàn nhà tôi kể) : 
Ông N ở Làng Dáu, nhiều năm trước, năm nào cũng thả diều. Ông vót diều và khoét sáo nổi tiếng trong vùng. Diều ông lên bổng, đứng chong, chao thưa ; Tiếng sáo diều ông réo rắt thanh bình, hòa âm như một giàn nhạc, thôi thúc lòng người. Những người biết chơi diều thì khỏi nói, đều mê diều sáo của ông, đứng ngắm hàng giờ ; Những người không biết chơi diều ít nhất cũng phải một đôi lần đứng lại, ngước nhìn con diều ông bay bổng, nghiêng tai nghe tiếng sáo réo rắt. Nhất là cánh trẻ trâu chúng tôi thì mê tít.
Ngày ấy cách đây cũng đã nhiều năm. Thời điểm ấy không phải ai cũng có điều kiện chơi diều như ngày nay: Một là không biết vót, hai là không có nhiều thời giờ rảnh rỗi, ba là thời buổi « gạo châu, củi quế » dễ đâu sắm được con diều . Ông P cùng làng là một trong những người như thế. Thực ra ông cũng thích diều nhưng không có điều kiện để chơi. Nhìn thấy những con diều chao nghiêng trên bầu trời ông thấy ngứa mắt khó chịu, nghe tiếng sáo diều réo rắt thì ông kêu inh tai khó ngủ. Ở chốn làng quê thường thường là thế mà.
Một buổi trưa, trời nắng tháng năm, diều ông N bị đứt dây, « ngập » xuống vườn ông P. Ông N đuổi theo lấy diều, đến cổng thấy ông P đang nằm võng, con chó thì nằm thở trong gốc vải sủa ngược ra, ông N không dám tự ý vào vì sợ chó liền gọi với vào :
-Chú P ơi, chú làm ơn mở cổng, trông chó giúp tôi để tôi vào tôi xin lại con diều nó « ngập » vào vườn nhà chú.
Ông P thủng thẳng đáp :
-Bác cứ vào tự nhiên, buổi trưa, chó nhà tôi nó nằm trong chỗ mát sủa ra chứ nó không chạy rông ra ngoài nắng đâu.
Ông N lấy diều xong cầm thẳng về nhà, ông đau vì câu nói không biết vô tình hay hữu ý của ông P. Thế là nó bảo mình không bằng con chó nhà nó. Người có tuổi thường hay nghĩ rất sâu.
Từ đấy, người ta không thấy ông N thả diều nữa. Có điều, khi rảnh rỗi ông vẫn đẵn tre ngồi vót diều, chặt gỗ gáo khoét sáo cho bọn trẻ trong làng. Tuy ông không thả diều nhưng mọi người vẫn nhận ra những cánh diều và tiếng sáo của ông N trên bầu trời quê hương thanh bình.
Xóm tôi cũng có nhiều người vót diều, khoét sáo rất giỏi như anh Khương, xóm ngoài có anh Huyên, xóm trên có anh Khải, anh Vị. 
Bọn trẻ trâu chúng tôi cũng mơ ước có được chiếc diều to nhưng ít dứa nào có, vả lại có làm diều to cũng không có dây để thả, chỉ chạy đâm diều ké của mấy ông anh. Chúng tôi chỉ vót được những cái diều nhỏ chừng một mét trở lại, đeo một sáo hoặc nhỏ hơn thì đeo ve. Lấy dây đay bện làm dây diều. Nếu diều cánh cốc thì chỉ việc tước dây đay nối với nhau không cần bện vì diều cánh cốc kéo nhẹ. Dù là dây diều làm bằng gì thì trước khi thả cũng phải nhúng dây vào nước dể dây dẻo, ít bị đứt.
Có lúc tôi vót cả những con diều chỉ dài hơn một gang tay, thả bằng chỉ hoặc dây bao nhưng khi thả cũng lên cao tít, do ảo ảnh nên nhiều người vẫn tưởng đấy là một con diều to.
Thả diều là một thú vui không biết chán của người miền quê. Bây giờ dù lớn tuổi tôi vẫn đi xem đám trẻ thả diều.
Bao giờ trở lại tuổi thơ
Cánh diều mang cả giấc mơ ùa về
Cưỡi trâu, thổi sáo ven đê
Lưng còng vai mẹ, gánh về cỏ non
Con hư bị bố đánh đòn
Mẹ chìa vai đỡsợ con tím lằn
Thương con nước mắt mẹ lăn
Bà thương cháu nội mắng thằng bố hư
Lớn lên cho đến bây giờ
Ngẫm tình cha mẹ, ông bà mà thương
Con đi khắp mọi nẻo đường
Không gì sánh được tình thương ruột rà
Nói đến bọn con trai, không thể thiếu nói đến lũ trẻ con gái. Tuy rằng trẻ trâu con trai là phần nhiều, chỉ họa hoằn mới có con gái chăn trâu. Thường thì họ ít thả và cưỡi trâu, mà họ chỉ dắt trâu là phần nhiều. Đôi khi có chị Luyên, cô Mát, chị Sánh, ... Trò chơi của con gái thường là chơi ô ăn quan, đánh chuyền, đánh chắt, nhảy nụ .... Tôi nhớ không được nhiều lắm, nhưng đánh chuyền thì có que chuyền và hòn chuyền. Que chuyền thường được làm bằng cành tre, có 10 que dài bằng hoặc hơn cái đũa một chút. Hòn chuyền thì nặn bằng đất hoặc quả cam, quả bưởi non. Cách chơi là rải đều que chuyền lên 1 bên chân duỗi thẳng, tung hòn chuyền lên, nhặt que chuyền xong thì bắt hòn chuyền. Bắt từ 1 que đến 10 que, hết 10 que chuyển sang các động tác cầm bó que chuyền chấm, vỗ, quét, xoay ... nhằm rèn sự khéo léo của người con gái. Vừa tung hòn chuyền vừa đọc các câu đồng dao nghe rất hay, mỗi lần tung đọc một từ theo nhịp. Tôi nhớ hình như nó thế này :
Cái mốt, Cái mai, Con trai, Con hến, Con nhện, Giăng tơ, Quả mơ, Quả mận, Cái cấn, lên đôi. (Cái cấn là con cá cấn, hay là cá thần cẩn ấy, có nhiều từ mà bây giờ nghe sẽ lạ lắm)
Đôi chúng tôi, Đôi chúng chị, Đôi cái tí, Đôi thằng cu
Đôi lên ba.
Ba lá đa, Ba chú cuội, Ba quả bưởi
Một lên tư
Tư ông sư, Tư bà vãi
Hai lên năm
Năm nong tằm
Năm lên sáu
Sáu củ ấu
Bốn lên bảy
Bảy quả na
Ba lên tám
Tám quả trám
Đôi lên chín
Chín cây cột
Một lên mười

Vơ lấy mười
Mười đập đất
Mười cất tay
Mười xay lúa
Mười thổi kèn
Mười đánh chuyên
Chuyền cầm lấy.
Và còn nhiều thứ lắm, từ chấm, đến quét, đến xoay ... rồi đọc những câu :
Đầu quạ
Qua ngang,
Sang sông
Về đò
Cò mổ… phải các chị phụ nữ đánh chuyền nhiều mới nhớ hết được. Nhiều người bảo mình đánh giỏi lắm, ấy vậy mà bảo nhắc lại thì hóa ra đã quên từ bao giờ rồi. Bọ con trai chúng tôi nghe nhiều mà thuộc mang máng, thế là đã giỏi lắm rồi.
Cứ như thế và tôi đã lớn lên, làng xóm, quê hương, cánh đồng, bạn bè, anh em, cảnh vật, trò chơi và hồn quê đã cho tôi cả dáng vóc và tâm hồn.

Không có nhận xét nào: